Betaxolol hydroclorid, Thuốc chẹn beta1 adrenergic chọn lọc, là một trong số các Thuốc chẹn beta1 giao cảm có hiệu lực và chọn lọc nhất hiện nay. Tác dụng chẹn beta1 - adrenergic của betaxolol tương tự như propranolol, mạnh hơn metoprolol 2 - 8 lần, và hơn atenolol 9 lần. Thuốc không có hoạt tính chủ vận beta1 và không có tác dụng ổn định màng. Ở liều thấp, betaxolol ức chế chọn lọc sự đáp ứng với các kích thích giao cảm bằng cách cạnh tranh chẹn các thụ thể beta1 - adrenergic ở tim, nhưng ít có tác dụng trên thụ thể beta2 adrenergic ở cơ trơn mạch máu và phế quản. ở liều cao, tính chọn lọc của betaxolol với thụ thể beta1 adrenergic thường giảm và Thuốc ức chế cạnh tranh cả thụ thể adrenergic beta1 và beta2.
Betaxolol không ảnh hưởng tới chuyển hóa glucose hoặc tốc độ phục hồi nồng độ glucose máu sau hạ glucose máu. Sau khi uống betaxolol, nồng độ trung bình của cholesterol toàn phần và triglycerid trong huyết thanh ở một số người bệnh tăng nhẹ, nhưng ở một số người bệnh khác lại không thay đổi. Thuốc không làm giảm nồng độ cholesterol của lipoprotein tỷ trọng cao (HDL) trong huyết thanh.
Thuốc làm giảm lưu lượng tim, giảm luồng thần kinh giao cảm, dẫn đến giảm sức cản ở hệ mạch ngoại vi và ức chế giải phóng renin ở thận.
Sau khi nhỏ mắt, betaxolol hydroclorid làm giảm cả nhãn áp cao hoặc nhãn áp bình thường ở người mắc hoặc không mắc glôcôm. Betaxolol làm giảm nhãn áp nhưng không ảnh hưởng tới kích thước đồng tử và điều tiết của mắt. Nhỏ betaxolol, làm giảm nhãn áp trung bình được khoảng 20 - 35% so với ban đầu. Cơ chế chưa rõ ràng, nhưng giảm tạo thành thủy dịch có lẽ là tác dụng chính. Các Thuốc chẹn beta adrenergic có thể ức chế sự tăng AMP vòng (adenosin monophosphat vòng) do catecholamin nội sinh kích thích ở các nếp thể mi và sự tạo thành thủy dịch tiếp sau.
Betaxolol được hấp thu tốt (80 - 90%) qua đường tiêu hóa. Ở người lớn khỏe mạnh, khi uống một liều 20 mg, nồng độ tối đa trong máu đạt 46 nanogam/ml sau khoảng 3 - 4 giờ. Sau khi uống 3 - 6 giờ tác dụng hạ huyết áp và ức chế beta giao cảm xuất hiện và thường kéo dài 24 giờ hoặc lâu hơn. Khi nhỏ mắt dung dịch 0,5% hoặc hỗn dịch 0,25% tác dụng giảm nhãn áp thường xuất hiện sau 30 phút đến 1 giờ, đạt tối đa trong vòng 2 giờ và duy trì được khoảng 12 giờ hoặc lâu hơn.
Khoảng 50% Thuốc gắn với protein huyết tương, chủ yếu là với albumin. Thuốc qua được nhau thai và bài tiết vào sữa mẹ. Nửa đời betaxolol trong huyết tương trung bình từ 16 - 20 giờ và kéo dài hơn ở người suy gan, thận và người cao tuổi. Thuốc thải trừ 80 - 90% qua nước tiểu, 1 - 3% qua phân, trong vòng 7 ngày, chỉ khoảng 16% bài tiết qua nước tiểu dưới dạng chưa chuyển hóa. Không loại bỏ được betaxolol đáng kể khi thẩm phân màng bụng hoặc thẩm phân thận nhân tạo.
Betaxolol được chỉ định điều trị tăng huyết áp và điều trị cơn đau thắt ngực, có thể dùng một mình hay phối hợp với các Thuốc điều trị tăng huyết áp khác (như các Thuốc lợi tiểu nhóm thiazid).
Các chống chỉ định khác bao gồm: nhiễm acid chuyển hóa, chậm nhịp xoang, chậm nhịp tim, bloc nhĩ thất độ II và độ III, sốc tim, hoặc suy tim không bù lại được bằng các glycosid tim hoặc các Thuốc lợi tiểu, người bệnh u tế bào ưa crôm ngoại trừ trường hợp đặc biệt thì phải dùng cùng với Thuốc chẹn alpha giao cảm.
Ngừng đột ngột Thuốc chẹn beta đôi khi gây cơn đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, loạn nhịp thất và Tu vong. Người dùng Thuốc chẹn beta lâu ngày phải ngừng Thuốc dần dần trong thời gian từ 1 đến 2 tuần.
Ngừng tạm thời và dần dần Thuốc chẹn beta trước khi gây mê được khuyến cáo để bảo đảm kiểm soát được hệ tuần hoàn tốt hơn. Nếu không thể ngừng được Thuốc chẹn beta trước khi gây mê, có thể dùng atropin để chống lại tăng trương lực do đối giao cảm. Tốt nhất tránh dùng các Thuốc gây mê làm suy cơ tim như ether, cyclopropan và tricloroethylen.
Thuốc chẹn beta có thể che lấp các triệu chứng cường giáp và giảm glucose - huyết và làm bộc lộ bệnh nhược cơ.
Do betaxolol qua được nhau thai, vì vậy dùng betaxolol hoặc các Thuốc chẹn beta giao cảm khác cho người mang thai có thể gây ra chậm nhịp tim nặng ở thai và trẻ mới sinh. Các Thuốc chẹn beta cũng có thể gây hạ glucose huyết ở trẻ mới sinh. Vì vậy không dùng betaxolol trong 3 tháng cuối của thai kỳ và trước khi sinh.
Các tác dụng không mong muốn phụ thuộc vào liều dùng, phổ biến nhất lúc bắt đầu điều trị và sau đó giảm dần.
Ít gặp và hiếm gặp, ADR < 1/100
Các dạng Thuốc nhỏ mắt của betaxolol nói chung được dung nạp tốt nhưng cũng có thể gây ra một số tác dụng không mong muốn tại chỗ, hay gặp nhất là gây đau, kích ứng nhẹ và chảy nước mắt. Các phản ứng phụ hiếm gặp là: Nhìn mờ, khô mắt, viêm giác mạc chấm, sợ ánh sáng. Ngoài ra Thuốc cũng có thể gây ra phản ứng dị ứng và phù nề.
ADR thường gặp và nặng nhất liên quan đến tác dụng chẹn beta - adrenergic. Người có bệnh tim khi dùng Thuốc phải được theo dõi chặt chẽ, vì các tác dụng tim mạch bao gồm tim đập chậm và giảm huyết áp, suy tim sung huyết hoặc blôc tim có thể sớm xuất hiện ở các đối tượng này. Nếu cần phải ngừng Thuốc, phải giảm liều dần dần trong thời gian ít nhất 7 - 10 ngày.
Các ADR chủ yếu gồm có mệt mỏi và lạnh đầu chi, xảy ra phổ biến nhất lúc bắt đầu điều trị và sau mất dần.
Người lớn: Khởi đầu 10 mg betaxolol, dùng 1 lần mỗi ngày. Liều có thể tăng gấp đôi sau 7 - 14 ngày nếu thấy cần thiết. Liều tối đa 40 mg/ngày.
Người bệnh suy thận (đang thẩm phân máu): Khởi đầu 5 mg, một lần/ngày, tăng dần liều, mỗi lần tăng 5 mg nếu thấy cần thiết. Liều tối đa 20 mg/ngày.
Liều dùng 1 - 2 giọt dung dịch betaxolol 0,5% hoặc hỗn dịch betaxolol 0,25% vào mắt bị bệnh, 2 lần/ngày.
Vì betaxolol là Thuốc ức chế beta giao cảm, nên khi dùng đồng thời betaxolol với một số Thuốc khác có thể gây ra các tương tác dưới đây:
Dùng đồng thời betaxolol với các Thuốc gây mê (cloroform, cyclopropan, halothan, enfluran, isofluran, methoxyfluran, trichloroethylen), các Thuốc hạ huyết áp như Thuốc chẹn kênh calci (verapamil, diltiazem), clonidin, diazoxid, guanabenz, reserpin, các Thuốc
amiodaron, nitroglycerin, cimetidin, phenytoin, propafenon có thể làm tăng tác dụng ức chế tim và hạ huyết áp. Ðặc biệt chú ý không bao giờ dùng betaxolol cùng với verapamil.
Dùng đồng thời betaxolol với các Thuốc chống viêm không steroid (nhất là indomethacin), các Thuốc ngủ dẫn xuất barbiturat, cocain, estrogen, có thể làm giảm tác dụng chống hạ huyết áp của betaxolol.
Lidocain: Dùng đồng thời betaxolol với lidocain sẽ làm giảm thải trừ lidocain, vì vậy làm tăng độc tính của lidocain.
Thuốc ức chế monoamin oxydase MAO (furazolidon, procarbazin, và selegilin): Về mặt lý thuyết sau khi ngừng Thuốc ức chế MAO 14 ngày, tác dụng tăng huyết áp vẫn đáng kể. Vì vậy không dùng betaxolol cùng với các Thuốc ức chế enzym MAO.
Các chất xanthin (đặc biệt là aminophylin và theophylin) và cường giao cảm: khi dùng đồng thời với betaxolol sẽ giảm tác dụng điều trị lẫn nhau.
Nhiều trường hợp quá liều betaxolol nhẹ. Nhưng một số trường hợp Thuốc gây ức chế mạnh tuần hoàn, thậm chí có thể gây Tu vong. Các triệu chứng đó là: Chậm nhịp tim, ức chế dẫn truyền, hạ huyết áp, suy tim, sốc tim. Co giật, hôn mê, ức chế hô hấp, co thắt phế quản cũng có thể xảy ra, nhưng không thường xuyên.
Khi hạ huyết áp nhẹ: Chỉ cần truyền dịch. Nếu huyết áp vẫn tiếp tục hạ, thì dùng glucagon hoặc các Thuốc cường giao cảm (như dobutamin, dopamin, adrenalin, hoặc noradrenalin, hoặc isoproterenol). Nếu nhịp tim chậm có thể điều trị bằng atropin, các Thuốc cường giao cảm hoặc dùng máy tạo nhịp. Nếu cần thiết phải dùng Thuốc chống loạn nhịp thì nên dùng lidocain hoặc phenytoin. Có thể tiêm tĩnh mạch các Thuốc diazepam hoặc lorazepam, khi có co giật xảy ra.
Chú ý: Hiện nay chưa có các thông tin về quá liều Thuốc nhỏ mắt, vì vậy, khi quá liều Thuốc nhỏ mắt nên rửa mắt với nước ấm.