Mô tả: Cây thảo sống lâu nhờ thân rễ, thân khí sinh thuộc hai loại. Các thân không sinh sản, có khi mọc nằm rồi đứng lên, có màu lục, khía rãnh dọc và có chiều dài 20-60cm, chúng mang những vòng các nhánh mảnh, trải ra rồi mọc đứng lên. Ở các mấu có 8-12 lá dạng vẩy tạo thành một bẹ màu nâu. Các cành sinh sản cao 10-20cm, không phân nhánh và tận cùng ở đỉnh là một khối hình trứng kéo dài tức là các bông lá bào tử gồm các vẩy có dạng đinh mang các túi bào tử ở mặt dưới.
Nơi sống và thu hái: Cây rất phổ biến ở châu Âu và các nước ôn đới, trong các đồng ruộng. Ở nước ta, cây mọc ở các chỗ ẩm ướt, núi cao, chỉ mới tìm thấy ở Sapa, tỉnh Lào Cai. Người ta thường thu hái các chồi màu lục (không sinh sản) vào cuối hè, rửa sạch, phơi khô.
Thành phần hoá học: Cây chứa một hỗn hợp alcaloid gọi là equisetin; nicotin, palustrin; một phytosterol; một saponoside là equisetonosid hay equisetonin; 3. heterosid flavonic; galuteosid (galuteolin), isoquercitrosid (isoquercitrin) equisetrosid. Còn có vitamin C, flavoxanthin, xanthophylle...
Tính vị, tác dụng: Vị ngọt hơi đắng, tính bình; có tác dụng lợi tiểu cầm máu, làm se và tiếp khoáng, điều kinh, làm liền sẹo.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Thường dùng chữa: 1. Phù thũng mà thiểu niệu; 2. Ho ra máu, băng huyết, chảy máu dạ dày, kinh nguyệt quá nhiều; 3. Lao phổi.
Dùng ngoài làm tăng sự thành sẹo của mụn nhọt chậm lành. Cũng dùng trị đau mắt, giải cảm cho ra mồ hôi.
Thường dùng dưới dạng bột hoặc nước hãm hay chiết xuất hoặc có thể sắc uống. Dùng ngoài lấy cây tươi giã đắp.