Mô tả: Cây thảo sống hàng năm, cao 60-100cm và dài hơn 10m; thân tròn có khía dọc. Lá kép 3 lá chét có cuống chung xẻ rãnh ở trên; lá chét màu lục nhạt, hình trứng rộng, dài 8-20cm, rộng 5-12cm, mềm và nhẵn; lá kèm sớm rụng. Cụm hoa hình chùm ở nách lá, dựng đứng, cao cỡ 10cm, có cuống to, mang hoa ở nửa trên. Hoa to màu trắng hay tím nhạt. Quả đậu hình vạch thuôn, dẹt, hai mép song song, cong hình chữ S, dài tới 40cm, rộng 3,5cm. Hạt 10-14, hình bầu dục dài, dẹt, màu đỏ hay nâu (var, gladiata) hay trắng (var, alba (Mak.) Hisuchi) dài đến 2,5-3,5cm, rộng 1-2mm.
Nơi sống và thu hái: Cây trồng ở khắp nước ta để lấy quả non, hạt non dùng làm rau ăn và lấy lá làm phân xanh. Người ta thu hái quả chín vào tháng 9-11, phơi khô, đập lấy hạt.
Thành phần hoá học: Hạt chứa canavalin, một chất kháng sinh đặc biệt, không có độc; còn có canavanin, men ureaza. Hạt chứa giberellin A21, A22.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Quả non có thể xào nấu, quả già ương thì lấy hạt hầm với thịt gà, thịt lợn rất ngon và bổ. Thường được dùng làm Thu*c trị hư hàn, ách nghịch (nấc), nôn mửa.
Ðơn Thu*c: - Chữa trường hợp sau khi đau lâu, nguyên khí suy yếu, nấc cụt không ngừng: Dùng hạt Ðậu rựa đốt tồn tính (hay sao già); tán bột uống 8g với nước chín thì yên.