Xương rồng ngọc lân, Xương rồng rào, Xương rồng ta - Euphorbia neriifolia L., thuộc họ Thầu dầu - Euphorbiaceae.
Mô tả: Cây nhỡ hay cây nhỏ cao 5-6cm, nhánh có 5 cạnh, dày 2cm hay hơn. Lá ở các ngọn nhánh, hình trái xoan ngược thuôn, hơi nạc, nguyên, chóp tròn, thon đầu lại thành cuống rộng, dài 13-15cm, rộng 3-4cm, có lá kèm thành gai, xếp 2 cái một ở các đệm. Cụm hoa thành xim nhỏ bên, ở ngọn các nhánh.
Nơi sống và thu hái: Gốc ở vùng cao của cao nguyên Decan (Ấn Độ), được trồng ở hầu khắp các vùng nóng như là cây cảnh. Ở nước ta, cây được trồng khá phổ biến. Có thể thu hái các bộ phận của cây quanh năm, thường dùng tươi.
Tính vị, tác dụng: Dịch nhựa của cây có tác dụng xổ, gây sung huyết da và làm long đờm. Rễ có tác dụng thanh nhiệt giải độc, chống co thắt.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Ở Ấn Độ, nhựa cây được dùng trị mụn cóc và một số suy sụp của da. Rễ cây được dùng trị bò cạp đốt, rắn cắn và dùng để duốc cá.
Ở Malaixia, nhựa cây dùng với gạo trị ho. Dịch lá là Thu*c đặc biệt trị bệnh đau tai. Lá dùng để duốc cá.
Kinh nghiệm dân gian dùng chữa đau thấp khớp, buốt dọc theo xương sống như kiến bò. Dùng thân cây, cạo bỏ vỏ xanh, rửa sạch, bổ đôi, bỏ ruột lõi. Thái nhỏ, phơi khô nấu nước uống hoặc ninh thịt gà lấy nước ăn. Rễ làm Thu*c bổ dạ dày.
Cũng dùng trị suyễn và viêm cổ họng: Lấy một nhúm lá già với tí phèn chua, đem phơi sương 1/2 giờ rồi ăn cả xác lẫn nước.