Cây thuốc quanh ta hôm nay

Cây sen vị Thuốc quí của Đông y

Quả sen, ta thường gọi nhầm là hạt sen, nếu để nguyên cả vỏ đỏ bên ngoài gọi là liên thạch, bóc vỏ ngoài, bỏ chồi xanh ở lõi giữa gọi là liên nhục. Chồi mềm xanh nằm trong hạt sen gọi là liên tử tâm, hay tâm sen. Rễ sen thường gọi là ngó sen hay ngẫu sen, liên ngẫu có hình trụ nằm ở dưới bùn. Lá sen thường gọi là liên diệp hay hà diệp. Gương sen -Liên sen hay là bát sen, sau khi đã lấy hết hạt phơi khô gọi là liên phòng. Tua nhị sau khi đã phơi khô gọi là liên tu.
Liên nhục(hạt sen) vị hơi ngọt tình bình, ngoài làm thức ăn bổ dưỡng, còn dùng điều trị các bệnh ở tỳ, thận, tim. Trị các chứng tỳ hư đại tiện lỏng, di tinh, chứng đới hạ của phụ nữ, tim hồi hộp mất ngũ. Bài Thuốc trị chứng tỳ hư đại tiện phân lỏng: Liên tử 50 gam, ý dĩ 15 gam, biển đậu(sao) 15 gam, hồng táo 10 quả sắc nước uống hàng ngày, uống liên tục 20 ngày bệnh sẽ khỏi. làm thức ăn bổ dưỡng có thể hầm với gà, vịt, bồ câu...

Liên tử tâm, Tâm sen, Liên tâm: Vị đắng tính hàn điều trị các bệnh ở tim, thận có tác dụng thanh nhiệt trong tim, làm hạ huyết áp, làm hai tạng tim và thận thông nhau để khỏi sinh bệnh, cố tinh, trẻ em sốt cao, mê sảng, nói nhảm, người huyết nhiệt nôn ta máu, chảy máu cam…

Ngó sen, Ngẫu sen: Vị ngọt, tính mát nếu dùng sống. Nếu nấu chín tính ôn. Điều trị các bệnh ở tim, gan, tỳ, vị. Dùng sống loại non nhỏ rửa sạch, mài nước đặc cho bệnh nhân uống có tác dụng mát huyết, cầm huyết, tiêu huyết ứ để sinh huyết mới, chảy máu cam, tiểu tiện ra máu, trị tiểu đường, giải rượu, cho uống ngày 20-40 ml. Dùng chín loại gìa, củ to: Có tác dụng bổ tỳ vị, bổ tâm an thần, ích huyết, Mài bột làm Thuốc bổ dưỡng cho người già, người mới ốm dậy cơ thể suy nhược, sau khi phẩu thuật chóng liền vết mổ, phụ nữ sau khi sinh huyết hư gầy yếu. sao cháy để cầm máu. Làm thức ăn bổ dưỡng, xào với thịt bò, làm nộm, nấu canh, ninh với thịt nạc…

Liên phòng, gương sen: vị đắng chát, tính ấm, điều trị các chứng đau bụng trướng đầy, phụ nữ huyết uất kinh nguyệt không ra, băng huyết, sắc cùng một số vị Thuốc khác cho bệnh nhân uống.

Lá sen, Hà diệp: vị đắng, tính bình, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, trị chứng tâm phiền mất ngũ, đau dạ dày do nhiệt, cố tinh ích nguyên khí.

Bs. Nguyễn Xuân Hướng

Mạng Y Tế
Nguồn: Sức khỏe đời sống (http://suckhoedoisong.vn/cay-sen-vi-thuoc-qui-cua-dong-y-n114243.html)

Tin cùng nội dung

  • Dùng rượu làm phụ liệu có ý nghĩa tăng tính ấm cho vị Thuốc, làm cho khí vị của Thuốc đi lên trên thượng tiêu.
  • Tết đến, các gia đình thường mua hoa để trưng bày trong nhà. Tuy nhiên, ít ai biết được rằng, bên cạnh vẻ đẹp, các loại hoa Tết như đào, hoa hồng, cúc vạn thọ, hoa mào gà… còn là những vị Thuốc quý.
  • Các loại rau thơm không chỉ làm cho các món ăn thêm hấp dẫn, mà còn góp phần không nhỏ trong việc phòng và chữa bệnh.
  • Đan sâm cải thiện tuần hoàn mạch vành, giảm đau thắt ngực, ngăn ngừa xơ vữa, tiêu cục máu đông – vị Thuốc không thể thiếu trong Đông y để trị bệnh tim mạch
  • Khi bị đầy bụng, khó tiêu, ngoài việc nên tránh những thức ăn khó tiêu như dầu, mỡ động vật, và nên ăn các loại thức ăn dễ tiêu, nấu mềm, chúng ta có thể dùng các vị Thuốc có tác dụng kích thích tiêu hóa là những quả, cây, lá có sẵn trong vườn nhà, vừa không tốn kém lại không gây hại cho cơ thể.
  • Cây qua lâu (trichosanthes kirilowi maxim.) thuộc họ bí (cucurbitaceae), có tên khác là dưa trời, dưa núi, hoa bát, vương qua (tên gọi ở miền Bắc, dây bạc bát, bát bát châu (tên miền Nam), người Tày gọi là thau ca.
  • Các dược liệu này sau khi ngâm tẩm bằng rượu, có thể sử dụng độc vị, hoặc phối hợp với các vị Thuốc hình thành bài Thuốc ngâm rượu, hoặc sắc uống có tác dụng bồi bổ cơ thể sau khi suy nhược về khí huyết, ngũ tạng hư suy, giúp cân bằng âm dương phòng và chữa bệnh rất tốt, hiệu quả góp phần cải thiện sức khỏe.
  • Theo Đông y, gừng khô vị cay, tính ôn; vào các kinh tâm, tỳ, phế và vị. Có tác dụng ôn trung tán hàn, hồi dương thông mạch.
  • Nhót được trồng ở khắp các vùng miền trong cả nước. Lá nhót chứa tanin, saponosid, polyphenol. Quả nhót chứa rất nhiều chất dinh dưỡng, được dùng để nấu canh chua, vị thơm; quả nhót xanh, thái ngang dày 3 - 5mm, phơi hoặc sấy khô để làm Thuốc.
  • Hoa hòe là hòe mễ, mễ là hạt gạo, ý nói vị Thuốc từ hoa hòe, có kích thước chỉ bằng hạt gạo, nghĩa là còn ở dạng nụ hoa, mới được dùng làm Thuốc.
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY