Thổ hoàng liên (Rhizoma Thalictri) là thân rễ phơi hay sấy khô của cây thổ hoàng liên và nhiều loài khác thuộc giống Thalictrum.
Thổ hoàng liên là một loại cây nhỏ, cao 40- 50cm, thân mỏng, mềm nhẵm. Lá kép 3 lần lông chim có bẹ, cuống lá chính dài 10-15cm, cuống lá bậc 2 dài 5-7cm, cuống bậc 3 dài 1- 3cm. Lá chét hình tròn hay bầu dục, mép khía tai bèo, phiến lá dài, lá màu xanh lục, mặt dưới nhạt hơn. Hoa nhỏ, cánh mỏng hơi phớt tím. Quả nhỏ, hình hạt thóc, đầu hơi có mỏ. Thân rễ to, thô đường kính 0,3-0,5cm có nhiều mấu, mấu cách nhau chừng 0,5 -1cm, bẻ ngang thấy rất nhiều xơ, thịt màu vàng tươi, vàng trắng.
Mới phát hiện mọc nhiều ở vùng Tây Bắc nhiều nhất ở vùng Tủa Chùa. Đã đem trồng thí nghiệm tại vườn Thuốc Sapa (Lào Cai) và Tầm Đảo (Vĩnh Phúc). Cây mọc tốt, ra hoa kết quả, rất dễ phát triển. Tuy nhiên cho đến năm 1967 chưa được đạt thành vấn đề trồng trên quy mô lớn. Chúng tôi cũng đã thí nghiệm trồng ở đồng bằng, nhưng sang mùa nóng cây khô héo và ch*t.
Thu hoạch tốt nhất vào thu đông, nhưng vì mùa này cây lụi đi khó tìm, khí hậu lại rét quá, ít ai đi tìm đào, cho nên thường khai thác vào các tháng 6, 7,8. Hái về rửa sạch đất cát, cắt bỏ rễ nhỏ, phơi hay sấy khô. Không phải chế biến gì đặc biệt. Ta nên nghiên cứu trồng phát triển tại những vùng có khí hậu mát ở Việt Nam.
Vị Thuốc tiêu thụ trên thị trường ở Việt Nam là những mẩu thân rễ cất thành từng đoạn ngấn, 2-4cm, đường kính 0,2-0,5cm. Mặt ngoài màu nâu sẫm, còn mang những đoạn thân ngắn, rỗng, đường kính 0,3-0,5cm. Trên có những rễ nhỏ màu vàng trắng dài hay sẹo của rễ nhỏ. Thân rễ rắn cứng, mặt bẻ gẫy không phảng, màu vàng tươi. Vị rất đắng.
Mô vỏ phần ngoài gồm những tế bào nhiều cạnh, hoặc hình chữ nhật, kéo dài đường tiếp tuyến, những tế bào phía trong nhiều cạnh, to nhỏ không đều, xếp lung tung. Sát với libe là những đám cương mô.
Bó libe gỗ xếp rải rác thành từng đám trong mô ruột. Giữa bó libe gỗ là tia ruột khá rộng với những khuyến hình bầu dục, trông phảng phất như những ống bài tiết.
Thổ hoàng liên tán bột có màu vàng xám, tươi dưới tia ngoại tím. Soi kính hiển vi thấy có những đặc điểm: Mảnh mộc thiêm, mảnh mạch, tế bào cương mô đơn độc hoặc tập trung thành từng dám, mỗi đám gồm 2-4 tế bào, không có tinh bột.
Lấy một ít bột, đạt lên tắm kính, thêm một giọt cồn 95 độ, một giọt axit nitric 30% đậy kính mỏng, chờ 5-10 phút, nhìn qua kính hiển vi sẽ thấy tinh thể hình kim màu vàng tươi (becberin nitrat). Ta có thể lấy một ít bột, đặt trên kính và thêm 1 giọt axit clohydric, chờ 15-20 phút sẽ thấy tinh thể becberin hình kim. Lấy chừng 30mg bột, cho vào ống nghiệm, nhỏ thêm độ 3ml nước cất, lắc vài phút, lọc lấy 2ml, cho vào ống nghiệm khác, thêm 1ml axit sunfuaric đặc 35%, nhỏ dần dần vào ống nghiệm 1ml nước clo, nơi phân cách 2 dung dịch sẽ thấy một vòng màu đỏ.
Trong thổ hoàng liên có khoảng 3% becberin, 0,3% panmatin, 0,02% jatrorrhizin. Ngoài ra còn một ít thalictrin nhưng có khi không thấy chất này (C. A. 1942, 36, 5478 a và c. A. 1953, 47, 11663h).
Như vị hoàng liên. Ngày dùng từ 4 đến 6g chia làm 2 hoặc ba lần uống dưới dạng Thuốc bột hay làm thành viên. Dạng Thuốc sắc quá đắng khó uống. Dùng ngoài cũng để chữa đau mắt, mụn nhọt như hoàng liên bắc.Tên khoa học Cyclea bicristata Diels.
Nguồn: Internet.