Mô tả: Cây cao 0,8-1,4m. Thân rễ rất dày, phủ vẩy. Lá không cuống, có gốc phồng, gần hình tim, xẻ thuỳ ít nhiều, thuỳ tròn, hẹp dần lại, chuyển dần sang phần trên của lá, phần trên này rộng 30-45cm, và chia trên 3/4 chiều dài thành thuỳ xiên, hướng lên, dài khoảng 20cm, rộng 3-4cm, hình thuôn dài, nhọn hay có mũi nhọn. Các thuỳ sinh sản hơi co. ổ túi xếp theo một hàng, giữa các gân bên, kéo dài, đôi khi hợp liền lại. Bào tử hình thận, không màu, nhẵn.
Nơi sống và thu hái: Loài của Ấn Độ, Nêpan, Mianma, các nước Ðông dương và Malaixia. Ở nước ta, cây mọc nhiều ở núi đá hoặc bám vào thân cây trong rừng ẩm ở Lào Cai, Bắc Thái, Hà Tây, Lạng Sơn vào tận các tỉnh phía Nam.
Tính vị, tác dụng: Vị hơi đắng, chát, tính ấm; có tác dụng bổ thận, hoạt huyết giảm đau, tiếp cốt tiêu thũng.
Ở Trung Quốc, thân rễ dùng chữa thận hư lưu tả; ù tai, đau răng, trẻ em cam tích, đòn ngã tổn thương, gãy xương, phong thấp đau nhức khớp xương.