Cây nhỏ, cao khoảng 1 - 3m, thân phân cành ở phía ngọn, nhiều lông. Lá mọc so le, phiến lá có lông, mép có răng cưa hay nguyên. Cụm hoa hình ngù ở nách lá hay ở ngọn, gồm nhiều đầu, trong mỗi đầu có nhiều hoa màu vàng. Quả bế có lông. Toàn cây có mùi thơm của Long não.
Cây của vùng Ân Độ, Malaixia, mọc hoang, phân bố rộng rãi khắp các vùng núi ở độ cao dưới 1000m, ở trung du và cả ở đồng bằng, thường gặp ven đường, quanh làng, trên các savan, đồng cỏ. Cũng được trồng bằng cành hay rễ để lấy lá. Có thể thu hái lá quanh năm, chủ yếu vào mùa hạ. Thu hái toàn cây vào mùa hạ và thu, dùng tươi, hoặc phơi hay sấy khô. Có thể dùng lá non và búp để chưng cất rồi cho thăng hoa thành Mai hoa băng phiến (Long não Đại bi).
Lá chứa 0,2-1,88%, tinh dầu và mai hoa băng phiến. Tinh dầu chứa d-borneol, L-camphor, cineol, limonen, acid palmitic, acid myristic. Còn có sesquiterpen alcol. Thành phần chính của mai hoa băng phiến là borneol; đó là một chất có tinh thể óng ánh và trắng như hoa mai, do đó mà có tên như trên.
Đại bi có vị cay và đắng, mùi thơm nóng, tính ấm; có tác dụng khu phong, tiêu thũng, hoạt huyết, tán ứ. Ở Ân Độ, người ta cho rằng nước hãm lá có thể làm toát mồ hôi, nước sắc lá bổ phổi và toàn cây có độc với cá. Mai hoa băng phiến có vị cay the đắng, mùi thơm nồng, tính ấm, có tác dụng tán phong hàn, tiêu đờm, sát trùng.
Thường được dùng trị 1. thấp khớp tạng khớp, dòn ngã tổn thương, sản hậu đau lưng; 2. đau bụng sau khi sinh, đau bụng kinh; 3. cảm mạo, đau dạ dày do lạnh, ỉa chảy. dùng ngoài chữa vết thương chấn thương, đinh nhọt, viêm mủ da, ngứa da. ở ân độ, người ta dùng đại bi làm Thuốc chữa trạng thái tâm thần bị kích thích, chữa chứng mất ngủ và bệnh huyết áp cao. liều dùng 6 - 12g lá, 15 - 30 g rễ hoặc toàn cây sắc uống. dùng ngoài lấy lá giã đắp hoặc nấu nước tắm. có thể làm Thuốc ngâm rượu để xoa bóp chỗ đau.
Chữa cảm mạo, ho, sốt nóng dùng 5 - 12g lá đại bi nấu nước uống. có thể nấu nước xông, dùng riêng hay phối hợp với các loại lá khác có tinh dầu.
Chữa ho: lá đại bi 200g, lá chanh 50g, rễ cà gai leo 100g, rễ thuỷ xương bồ 100g, củ sả 100g, trần bì 50g, tất cả phơi khô, cắt nhỏ nấu với nước 2 lần để được 700ml dung dịch, lọc, rồi thêm 300ml xi rô để được 1 lít cao. ngày uống 40ml, chia làm 2 lần.
Thông thường ta hay dùng nấu chúng với lá Sả, lá Bưởi, lá Cam làm nước xông cho ra mồ hôi. Người ta giã lá đắp ở thái dương cho đỡ nhức đầu hoặc lá nhét vào lỗ mũi khi bị chảy máu cam.
Nguồn: Internet.Chủ đề liên quan:
cây thuốc khu phong tiêu thũng đại bi khu phong tiêu thũng thuốc khu phong tiêu thũng