Đây là các nhánh lớn xuất phát từ các đường kinh chính và chạy đến cơ và gân (vì thế mà có tên là kinh cân). Chúng gồm 3 kinh âm và 3 kinh dương của chân và tay.
Về chức năng S*nh l*: Các đường kinh cân chỉ liên hệ duy nhất với phần nông của cơ thể, chúng không có tác dụng đến phần ở sâu, nghĩa là ở tạng/phủ.
Trương Cảnh Nhạc có chú giải về vấn đề này như sau: “Kinh cân có nhiệm vụ nối liền đến trăm hài cốt; do đó nó thắt chặt, liên lạc toàn thân và đều có chỗ định vị của nó. Tuy rằng kinh cân có những đường vận hành tương đồng với kinh mạch, thế nhưng những chỗ kết, chỗ thịnh của kinh cân đều nằm ở các khoảng của khê cốc. Đó là vì cân khí hội nhau ở những nơi cốt tiết. Cân thuộc Mộc, hoa của nó ở trảo, vì thế 12 kinh cân đều khởi lên từ những móng tay chân, sau đó chúng thịnh lên ở phụ cốt, kết ở khuỷu tay và cổ tay, ràng buộc vào đầu gối, liên hệ với cơ nhục, lên trên đến cổ và gáy, chấm dứt ở đầu và mặt. Trên đây là con đường đi đại lược của kinh cân trong thân thể”.
Các kinh cân khởi phát luôn luôn ở đầu ngón tay hoặc ngón chân, chúng nối các khớp lớn lại với nhau, sau đó chúng phân nhánh ở mặt trước/sau của cơ thể hoặc ở đầu.
Các rối loạn của các kinh cân được biểu hiện ngay tại vùng mà các đường kinh ấy đi qua. Các rối loạn này thường cục bộ và thường chỉ ở phạm vi cơ, gân của vùng đầu thân và chi, ít khi có kèm biểu hiện lâm sàng ở tạng/phủ. Triệu chứng chủ yếu là đau kèm tê (algoparesthésia) hay ngứa.
Cần phải nhắc rằng, nhờ vào hệ thống kinh cân mà có một số huyệt có những tác dụng ngoài đường kinh chính và kinh biệt.
Ví dụ: Hợp cốc và Dương khê trị được đau đầu là do kinh cân Đại trường đi từ vùng trán bên này băng qua đỉnh phía bên kia, sau đó đi xuống hàm trên bên đối diện.
Về thực hành, kinh cân đóng vai trò quan trọng trong điều trị các bệnh gọi là “biểu” mà nguyên nhân không lệ thuộc vào các kinh chính và kinh biệt.
Phương pháp trị liệu chủ yếu gồm 2 yếu tố:
Chọn huyệt: chủ yếu là sử dụng những huyệt đau tại chỗ dọc theo lộ trình kinh cân bệnh. Thiên 13, sách Linh khu khi mô tả lộ trình của 12 kinh cân, triệu chứng bệnh lý của từng kinh cân đều nêu rõ chỉ có một cách chọn huyệt như sau: “Khi châm nên tìm chỗ nào đau (thống điểm) xem đó là du huyệt để châm”.
- Chọn phương pháp và thời gian châm: cũng như trên, thủ pháp và thời gian châm trị bệnh của tất cả kinh cân đều như nhau. Đó là châm có kèm cứu nóng, phép châm phải công tà nhanh, không cần phải theo “Phép nghinh tùy xuất nhập” gì cả. Thiên 13, sách Linh khu có nêu về thủ pháp này như sau: “...Phép trị nên châm bằng phép phần châm để đuôi hàn tà cho nhanh. Không kể số lần châm, châm cho đến khi hết thì thôi”. Về phép phần châm, Trương Cảnh Nhạc chú giải như sau: “Phần châm là phép thiêu châm. Chữ kiếp ý nói dụng hỏa khí đuổi gấp hàn tà khí”. Trương Cảnh Thông lại chú: “Phần châm tức là thiêu châm. Kiếp thích ý nói phép châm này như đang ở thế đoạt khí nhanh, châm vào là tà khí phải ra đi, không theo phép nghinh tùy xuất nhập gì cả”.
Lộ trình kinh cân luôn xuất phát từ đầu ngón tay hoặc chân và có hướng đi hướng tâm. Kinh cân chỉ phân bố ở phần ngoài của cơ thể, chủ yếu là gân, cơ, khớp.
Lộ trình kinh cân phần lớn trùng khớp với lộ trình nổi của kinh chính tương ứng, do đó học lộ trình kinh cân chủ yếu dựa vào lộ trình nổi của kinh chính tương ứng phần khác biệt của kinh cân.
Mười hai kinh cân hợpvới nhau thành 4 hợp, theo quy cách: 3 đường kinh âm ở tay, 3 đường kinh dương ở tay, 3 đường kinh âm ở chân, 3 đường kinh dương ở chân.
Nhánh sau ngoài: nhánh này chéo qua nhánh trong ở hố nhượng, chạy lên mông, theo cột sống lên cổ và chia làm 2 nhánh nhỏ:
Một nhánh thẳng phân nhánh ở xương chũm, rồi chạy lên đầu ra trước trán (phân nhánh vùng cơ ở mắt phía trên) chạy xuống mũi và tận cùng ở cung gò má. Ở vùng lưng, ngang đốt sống lưng thứ 7 cho nhánh đến nếp nách, chạy lên vai đến huyệt Kiên ngung. Ở nếp nách có một nhánh băng qua dưới nách ra ngực, chạy lên hố thượng đòn đến huyệt Khuyết bồn. Từ đây chia làm 2 nhánh:
Thiên Kinh cân sách Linh khu: “Bệnh của nó (túc thái dương) sẽ làm cho ngón chân út và ngón chân sưng thũng và đau, khoeo chân bị chuột rút, lưng bị ưỡn như muốn gãy, gân gáy bị co rút, vai không đưa cao lên được, đau từ nách lên đến Khuyết bồn như bó vặn lại, không lắc lư được từ phải hay trái gì cả”.
Chạy tiếp lên theo mặt ngoài đùi, ở đoạn này có phân hai nhánh: một nhánh lên vùng huyệt phục thỏ (kinh Vị) và một nhánh đến xương cụt. Chạy tiếp lên vùng sườn 11 - 12 đến dưới nách, rồi chia làm hai nhánh:
Nhánh thẳng: đi lên phía trước nách, lên hố thượng đòn, chạy lên đầu ở phía sau tai, chạy đến góc trán ở huyệt Đầu duy. Từ đây nó chia làm 2 nhánh nhỏ:
Nhánh dưới chạy xuống cằm vòng lên má ở huyệt Quyền liêu và tận cùng ở khóe mắt ngoài ở huyệt đồng tử liêu.
Thiên kinh cân, sách Linh khu: “Khi bệnh, nó (túc thiếu dương) sẽ làm cho chuyển cân ở ngón áp út phía ngón út, dẫn lên đến gối làm chuyển cân ở mép ngoài gối, làm cho gối không co duỗi được, khoeo chân bị co rút, mặttrước co giật lên đến háng, phía sau làm cho giật đến vùng xương cùng. Nó làm đau lan tràn lên đến vùng mềm của bờ sườn cụt, lên trên nó dẫn đến vùng ngực, vú và Khuyết bồn cũng đau. Cân duy trì ở cổ bị co rút từ trái sang phải, mắt phải không mở ra được...”.
Nhánh ngoài chạy theo mặt ngoài xương chày, gắn vào mặt ngoài gối, chạy thẳng lên háng, đến huyệt Hoàn khiêu. Từ đây lên vùng sườn 11, 12 và tận cùng ở cột sống.
Nhánh trong đi từ cổ chân theo xương chày lên gối, gắn vào phía dưới xương bánh chè và từ đây chia làm 2 nhánh nhỏ:
Một nhánh chạy lên qua vùng phục thỏ đến tam giác Scarpa ở dưới bẹn, chạy vào giữa ở huyệt Khúc cốt và Trung cực, gắn vào các cơ bụng, chạy tiếp thẳng lên hố thượng đòn, lên cổ đến góc hàm, vòng quanh môi và tận cùng ở huyệt Quyền liêu. Từ đó có các nhánh tận cùng.
Thiên 13 sách Linh khu: “Khi gây bệnh, nó (túc dương minh) sẽ làm cho chuyển cân từ ngón chân giữa lên đến hĩnh cốt, bàn chân bị giật nhảy lên và cứng, vùng huyệt phục thỏ bị chuyển cân, vùng háng bị sưng thũng, bị chứng đồi sán, cân ở bụng bị co giật, dẫn lên đến khuyết bồn và má, miệng méo xệch. Nếu bệnh cấp thì mắt không nhắm lại được. Nếu nhiệt thì cân bị mềm lỏng, mắt không mở được. Nếu cân ở má bị nhiệt thì nó sẽ làm cho cân bị buông lỏng, không co lại được, miệng xệ xuống”.
Huyệt Quyền liêu: hõm tạo bởi cung gò má và xương hàm trên. Trong trường hợp cả 3 kinh cân đều bị bệnh, huyệt hội này thường phản ứng và đau. Việc chẩn đoán đường kinh cân nào bị bệnh ở đầu mặt được dựa vào:
Xuất phát góc trong gốc ngón cái (huyệt Ẩn bạch), chạy đến mắt cá trong, chạy lên theo mặt trong cẳng chân, mặt trong đùi.
Thiên 13 sách Linh khu: “Khi gây bệnh, nó (túc thái âm) sẽ làm cho từ đầu ngón chân cái đến mắt cá trong đều đau như chuột rút, xương phụ cốt bên trong gối bị đau, từ mặt trong vế lên đến háng bị đau, vùng bộ Sinh d*c bị đau xoắn; rốn và hai bên hông sườn đau dẫn đến ngực và trong cột sống đau”.
Xuất phát từ lưng ngón chân út, chạy xuống lòng bàn chân qua huyệt Dũng tuyền, chạy theo kinh cân tỳ đến mắt cá trong → chạy đến gót nối với kinh cân Bàng quang, từ đây chạy lên theo mặt trong cẳng chân gắn vào lồi cầu trong xương quyển, chạy lên theo kinh cân Tỳ, đến bộ phận Sinh d*c (huyệt Khúc cốt, Trung cực), đi vào hố chậu, trở ra vùng mông, chạy lên dọc theo các cơ cạnh gai sống, gắn vào gáy và nối với kinh cân Bàng quang.
Nếu có các rối loạn loại âm chứng: bệnh có cảm giác nặng vùng hố chậu và không ngửa ra sau được. Ở phụ nữ: rối loạn kinh nguyệt kèm thống kinh.
Nếu là dương chứng: không cúi ra trước được kèm nặng vùng hố chậu.
Thiên 13 sách Linh Khu: “Khi gây bệnh, nó sẽ làm cho gan bàn chân bị chuyển cân; cho nên các nơi mà đường kinh kết vào đều đau và đều chuyển cân. Vì bệnh được biểu hiện các nơi này, cho nên sẽ gây thành động kinh, co quắp và cứng mình. Nếu bệnh ở ngoài thì sẽ không cúi xuống được, nếu bệnh ở trong thì không ngửa lên được, cho nên bệnh ở dương thì thắt lưng bị gãy ngược ra sau, không cúi xuống được; nếu bệnh ở âm thì không ngửa lên được”.
Xuất phát lưng ngón chân cái, đến gắn vào mắt cá trong, chạy lên theo xương quyển và gắn phía dưới lồi cầu trong xương này, chạy lên bẹn gắn vào xương mu và hòa với kinh cân Tỳ và kinh cân Thận.
Rối loạn nguyên nhân bên ngoài thường là nhiệt tà: cơ quanSinh d*c chảy dài...
Thiên 13 sách Linh khu: “Khi gây bệnh, nó sẽ làm cho từ ngón chân cái đến trước mắt cá chân đau, trong xương phụ cốt đau, phía trong vế đau, chuyển cân, bộ Sinh d*c bất dụng, liệt không dùng được nữa. Nếu bị thương bên trong nó sẽ không cứng lên được, nếu bị thương bởi hàn tà thì nó bị teo thụt vào trong; nếu bị thương bởi nhiệt thì nó bị cứng lên, không nhỏ lại được”.
Huyệt Trung cực: huyệt này phản ứng khi 3 kinh cân âm ở chân đều bệnh. Chú ý lộ trình lan của đau để xác định kinh có bệnh.
Xuất phát từ góc trong gốc móng út (thiếu xung), gắn vào cạnh trong cổ tay, chạy theo cạnh sau trong cẳng tay gắn vào bờ trong khớp khuỷu, đến nếp nách đến mặt sau vai đến cổ rồi chia làm 2 nhánh:
Nhánh sau: đến xương chũm (tại đây phân một nhánh vào trong vai), sau đó tiếp tục vòng từ sau ra trước tai, xuống hàm dưới, trở lên khóe mắt ngoài.
Thiên 13 sách Linh khu: “Khi gây bệnh, nó (thủ thái dương) sẽ làm cho ngón tay út lan ra đến mép sau xương lồi nhọn phía trong khuỷu tay đều bị đau, đau dần lên phía trong cẳng tay nhập vào dưới nách, dưới nách cũng đau, mép sau nách đau, vòng theo sau bả vai dần lên đến cổ đau, ứng theo đó là trong tai bị kêu và đau đầu dẫn đến hàm, mắt có khi bị mờ hồi lâu rồi mới thấy trở lại. Khi cân ở cổ bị co rút thì sẽ làm cho cân bị nuy và cổ sưng thũng, đó là hàn nhiệt đang ở tại cổ”.
Xuất phát ở góc trong gốc ngón 4 (quan xung), chạy lên mu bàn tay, gắn vào cổ tay, chạy tiếp mặt sau cẳng tay, gắn vào cùi chỏ, đến mặt sau cánh tay lên vai, lên cổ, gắn với kinh cân Tiểu trường(sau góc hàm dưới) ở huyệt Thiên dung và chia làm 2 nhánh.
Thiên 13 sách Linh khu: “Khi gây bệnh thì suốt con đường mà kinh đi qua đều chuyển cân, lưỡi bị cuốn lại”.
Xuất phát từ góc ngoài gốc móng 2 (thương dương), gắn vào cổ tay, chạy theo mặt ngoài cẳng tay, đến khuỷu lên vai ở huyệt Kiên ngung và chia làm 2 nhánh:
Nhánh đi tiếp lên góc hàm gắn vào mi dưới. Từ góc hàm có một nhánh chạy tiếp lên nếp tóc trán rồi vòng qua phía đối diện đến gắn vào góc hàm dưới bên kia.
Thiên 13 sách Linh khu: “Khi bệnh, nó (thủ dương minh) sẽ gây cho suốt trên đường mà nó đi qua đều bị đau và chuyển cân. Vai không đưa lên cao được, cổ không ngó qua tả và hữu được”.
Migraine kèm đau ở mặt lan lên đầu như đội nón (vòng quanh trán sang bên đối diện): bệnh ở kinh cân Đại trường.
Xuất phát góc ngoài gốc ngón cái (thiếu thương), chạy theo đường kinh chính đến giữa khuỷu, chạy lên theo mặt trước cánh tay đi vào vùng dưới nách ở huyệt Uyên dịch (kinh Đởm), chạy trở lên hố thượng đòn, gắn vào mặt trước vai rồi quay trở lại hố thượng đòn đi vào trong thành ngực gắn ở đó và phân nhánh ở tâm vị và hạ sườn.
Thiên 13 sách Linh khu: “Khi bệnh, nó (thủ thái âm) sẽ làm cho suốt con đường mà nó đi qua đều bị chuyển, cân đau. Nếu nặng hơn sẽ thành chứng tức bôn, hông sườn bị vặn, thổ huyết”.
Xuất phát từ góc ngoài gốc ngón giữa Trung xung đi trong lòng bàn tay đến cẳng tay, tới giữa khuỷu tay chạy lên theo kinh chính đến dưới nách. Từ đây chia làm 2 bó:
Bó 2: đi sâu vào vùng dưới nách ở huyệt Uyên dịch rồi phân nhánh ở thành trong lồng ngực và tận cùng ở tâm vị.
Thiên 13, sách Linh khu viết: “Bệnh của nó xảy ra sẽ làm cho suốt con đường mà nó đi qua đều bị chuyển cân cho đến vùng ngực bị đau, chứng tức bôn”.
Chú thích: “tức bôn” được chú giải như sau:
Nội kinh giảng nghĩa: “Tức bôn là một trong ngũ tích. Chứng này khiến cho người bệnh hô hấp dồn dập, gấp rút”.
Điều 56, sách Nạn kinh có ghi: “Tích khí của phế gọi là tức bôn hình thành ở dưới sườn phía hữu, to như cái ly úp xuống, bệnh lâu không dứt khiến cho người bệnh bị vào trạng thái lúc hàn, lúc nhiệt, ho suyễn, phát ra phế ung”.
Thiên 4, sách Linh khu: “Phế mạch khi hoạt thậm gây thành chứng tức bôn”.
Xuất phát từ góc ngoài gốc ngón út (thiếu thương), theo kinh chính lên cạnh trong khuỷu chạy lên đến vùng dưới nách ở huyệt Uyên dịch, từ đây đi vào trong lồng ngực chạy theo đường giữa đến tâm vị rồi đến rốn.
Do nguyên nhân bên trong: đau lồng ngực làm cản trở vận hành khí huyết dẫn đến triệu chứng “u” vùng thượng vị kèm triệu chứng buồn bã, đau ở rốn và cảm giác bị nhức ở cùi chỏ và cổ tay.
Thiên 13 sách Linh khu: “Nếu gây bệnh, nó (thủ thiếu âm) sẽ làm cho gân bên trong co rút, tiếp nhận lấy bệnh phục lương, xuống dưới làm cho khuỷu tay như bị một màn lưới co kéo”.
Chú thích: phục có nghĩa là cái gì đó núp dưới tâm, rồi vươn dài tới rốn như bắc một chiếc cầu nối liền hai vùng, cho nên mới gọi là phục lương (Du Thượng Thiện chú giải).
Đau nách kèm đau bụng, ngực (đặc biệt vùng trên rốn) kèm triệu chứng có “u” ở thượng vị: bệnh ở kinh cân Tâm.
Nguồn: Internet.