Những nếp răn trên mặt, những vết ở trán, ở má, ở mũi... đều gọi là diện văn, tỉ dụ hai nếp răn thường ai cũng có từ hai cánh mũi chạy dài xuống cằm là pháp lệng văn.
Da thịt người ta do rất nhiều tế bào tổ chức thành, da lúc sơ sinh không có nếp răn. da trẻ con không có nếp văn là đẹp. Rồi theo với quá trình trưởng thành, do tư tưởng, vận động gân thịt và da mà sinh ra văn. Phàm những ai đa tư đa lự, từng cục bộ trên mặt thường chịu sự khiên dẫn của tư tưởng tác dụng vào, ngày này qua tháng khác lâu dần thành thếp răn.
Câu ấy rất đúng vì ai diện mạo trơn tru quá thường là kẻ si ngốc, hoặc hèn ưa sư phụ, hoặc thích hư vinh. Tuy nhiên, không phải cứ có văn là tốt, kinh nghiệm tướng học cho biết có văn tốt và văn xấu.
Diện chi hữu văn lý, do nha dốc ngọc thạch hữu mạch lạc dã. Kỳ dị giả cát, phái toái giả hung, nhân chi văn lý, quý tiện khả đoán (nghĩa là: Trên mặt có nếp nhăn ví như sừng ngọc ngà, ngọc thạch có gân máu. Vẻ kỳ dị là tốt, gẫy phá là hung. Trông văn lý trên mặt con người ta khả dĩ đoán định quí tiện)
Văn chạy ngang, văn chạy dọc, văn chữ thập, văn chữ chếch, văn mắt lưới, văn bán nguyệt, văn chữ xuyên (ba vệt dọc đứng liền), văn chữ tam (ba vệt ngang nằm chồng lên nhau), văn chữ Vương (ba vệt ngang, giữa có một vệt dọc), văn rắn bò (một vệt ngang chạy gấp khúc) thủy văn (nhiều văn ngang chạy lăn tăn như nước), hỏa văn (nhiều văn chếch chạy lém lên lém xuống như lửa cháy).
Hung hay cát của văn tuỳ thuộc nơi nó hiện, tùy thuộc sự sắp xếp, tùy thuộc nó gãy nát hay tiếp nối. Hãy nói về văn trên trán trước:
- Trán vuông vắn đầy đặn mà có ba vệt chạy song song hai đầu vễnh lên gọi là tam văn uyển thượng quý đến bậc khanh tướng, nếu là vương tự văn thì quý đến bậc công hầu.
- Trán có ba vết chạy ngang từ góc này sang góc kia gọi là tam hoàng văn nhiễu chủ vào việc mồ côi cha.
- Trán có hai văn dọc dựng đứng ở giữa trán, chạy tới ấn đường gọi là thiên trụ văn, nếu trán đẹp tất hiển đạt.
- Có những văn dăn dúm ở trên lông mày hoặc ở ấn đường (vị trí giữa hai chân mày) tất ưu sầu cùng khổ, nếu những vết ấy đi theo đôi mắt dữ tợn là phường trộm cắp.
- Văn chữ thập nhưng chéo như hai thanh kiếm vắt chéo gọi là giao kiếm văn, gần thái dương, ấn đường, trán, mũi, lưỡng quyền, hai bên miệng, dễ ch*t vì đao cung, súng đạn.
- Dưới mắt có văn ngang dọc như lưới đan, dễ phẫ uất mà Tu tu hoặc hình hại về đường tử tức. Nếu nó ở gần miệng thì bị đói khổ, nếu nó ở dìa mặt là triệu chứng ch*t vì sông nước.
- Đuôi con mắt làm thành một văn chạy chếch lên thái dương rất tốt chủ về sự sang quý, nhiều may mắn nhưng đàn bà lừa dối chồng.
- Có những văn dọc trên sống mũi nhất là chúng lại uốn thành óc câu thì hình phu và đa phu. Nhưng nếu hai văn ngang giữa có một văn dọc như chữ sĩ lại lấy chồng đỗ đạt cao.
- Những văn ở khu vực mũi chạy vào miệng qua góc miệng đều gọi là đằng sà nhập khẩu (rắn bay vào miệng) ch*t đói. ch*t đói không nhất thiết là vì nghèo khổ, có thể vì đau cả tháng không ăn mà ch*t đói.
(nghĩa là: Con người ta đến tuổi trung niên mới được có văn, nếu ấu thời mà văn hiện lên là điều đáng lo ngại)
Sách tướng còn nói đến một loại văn nữa gọi là văn mắt cua (giải nhãn văn) hình thù nó gồm một vòng nhỏ hình bầu dục có đuôi là một vệt dài. Nếu có giải nhãn văn hiện lên trên vừng trán thì tiếng tăm vang bốn bể (Ngách thượng giải nhãn chi hình danh văn tứ hải)
Bạch Quý Canh làm huyện lệnh ở Bành Thành. Mãi đến năm 41 tuổi ông mới lấy vợ. Người vợ lại là cháu gọi ông bằng cậu chừng 15 tuổi. Theo pháp luật đời nhà Đường bấy giờ chuyện họ hàng cửu thích lấy nhau như vậy là có tội.
Hôn nhân bất chính thường này đã gây thành bi kịch cho cả hai vợ chồng. Đối với chồng đường sĩ họan bị cắt đoạn, đối với vợ gia đình xã hội ruồng bỏ.
Sinh đứa con đầu lòng nó bị ch*t yểu phần vì Bành Quý Canh quan chức nhỏ bé nay chỗ này mai chỗ khác, phần vì có lẽ mang cùng dòng máu nên đứa bé yếu nhược.
Bành Quý Canh vào lúc loạn An Sử vừa dứt, trật tự xã hội hoàn toàn bị phá hoại bởi chiến tranh. Người làm quan nếu không có sản nghiệp, hoặc đã không có cơ hội vơ vét, chỉ biết trông vào lương bổng thì sinh hoạt hết sức đắng cay tân khổ.
Nhà họ Bạch trước đủ ăn, kinh qua chiến loạn, trạng huống kinh tế trở nên bết bát. Mẹ phải làm thêm mới đủ kiếm sống, vừa phải canh cửi bếp nước, lại vừa phải nuôi dạy hai con. Ức uất mệt nhọc tích lâu ngày đã khiến cho tâm lý Trần Thị sinh biến thái, bà ghét cay đắng ông chồng, hành vi cử chỉ đối với ông thường hun hãn. Bành Quý Canh buồn phiền tìm cách dựa vào những công vụ để không đồng cư với vợ nữa.
Vợ chồng ăn ở với nhau đúng 25 Bành Quý Canh mất. Trần thị vừa 40 tuổi. Hai con trai Bạch Cư Dị và Bạch Hành Giản đều chưa trưởng thành.
Chồng ch*t rồi tính tình Trần thị càng hoại hơn trước, biến thành điên rồ, bà thường rên la rồi quát tháo đập phá. Bạch Cư Dị thờ mẹ rất có hiếu, suốt ngày hầu hạ Thu*c men không hề trễ nãi. Nhưng bệnh của mẹ chẳng làm sao chữa khỏi. Có lần bà đã đâm dao vào cổ tự sát. Bởi vậy, Bạch Cư Dị càng cực khổ hơn, ngày đêm không dám rời mẹ.
Đến khi Bạch Cư Dị đỗ tiến sĩ làm quan tại Trường An, ông di chuyển cả gia đình tới đó rồi đi tìm lương y khắp nơi về chữa bệnh cho mẹ. Nhưng bệnh điên của Trần thị chỉ giãm đi được phần nào mà không khỏi.
Rồi một hôm bà ở ngoài vườn xem hoa, căn bệnh lên cơn bất ngờ, liền nhảy xuống cái giếng khô mà ch*t.
Trần thị lạc tỉnh trung ác tử chỉ vị nhãn hạ hữu hung văn (Trần thị ngã xuống giếng ch*t hung chỉ vì dưới mắt có hung văn).
Chủ đề liên quan:
tướng mệnh đàn bà