Tướng học là một cái học tối cổ của Trung Quốc, nghiên cứu thân thể con người qua cốt cách và ngũ hành trên ý nghĩa triết học phảng phất ít nhiều ý nghĩa thần bí, cho nên cần phải dùng khả năng ý hội mới có thể dễ đi vào. Chớ quá nệ vào phương pháp nghiên cứu khoa học Tây phương, đoán một việc, luận một điều đều căn cứ quy nạp pháp, diễn dịch pháp để tìm căn nguyên nguồn gốc. Nếu khoa học quá thì tài xem tướng chỉ đến bậc trung. Có ý hội được cốt cách, ngũ hành thì mới mong lên bậc cao.
Khoa hoc Tây phương chuyên dùng lối thực sự cầu thị trọng kinh nghiệm, cho nên khi phân tích con người chia ra thế nào giải phẫu học, tâm lý học, S*nh l* học, nhân chủng học. Trong khi tướng lý đặt trên nguyên tắc tòng không hư xứ dĩ cầu ký chân (từ chỗ không hư mà tìm đến chân lý).
Con người ta sinh ra bất đồng nên tâm lý cũng khác nhau. Cổ nhân thường nói: Nhân tâm chi bất đồng cách như kỳ diện (ngĩa là: Lòng con người khác nhau như những bộ mặt con người).
Tâm lý với S*nh l* không giống nhau nên nghèo giàu, thọ yểu, cùng thông đắc thất cũng không giống nhau. Bởi vậy, cổ nhân mới nói: Thành hồ trung, hình hồ ngoại, hiên ư tứ thể, ánh ư diện bối hữu mạc khả đào hĩ (nghĩa là: Bên trong thực như thế nào thì hiện hình ra bên ngoài như thế, nó hiện ra tứ chi và long mặt chẳng thể tránh được).
Đi là sự di động của thân, hình tích lưu lộ ra bên ngoài. Quý nhân khi đi, khí thế từ trên giáng xuống lực tụ vào hai bàn chân cho nên mình không lắc lư, chân không loạn. Tiện nhân lúc đi thường co quắp (thiếu khí lực ở xương sống) lệch lẹo. Người ch*t yểu đi ẻo lả, nhuyễn nhược, nhẹ và bềnh bồng (vì khí suy). Người bôn tấu đi gout không xuống đất (vội vã, hấp tấp, le te). Người giảo quyệt đi đầu cúi xuống đất. Người cương nghị đi ưỡn ngực. Người buôn bán giỏi đi thân nặng chân nhẹ. Người có chức tước đi thân nặng, chân đặt cả bàn xuống đất chắc chắn vững vàng. Người thuộc loại tiểu lại đi vung vẫy tay (giao thủ), sức mạnh hiện lên co chân và bắp chân là hiện tượng mong nhanh nhẹn để làm đ5p lòng bề trên. Người quan chức to đi thân thể trông khôi vĩ, hơi thở ấn trong bụng, ngực. Đọc kỹ đoạn trên sê thất thế nào là ý nghĩa triết học của tướng lý.
Đọc áng văn chương tuyệt tác Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần, người ta có thể thấy phần nào cốt cách đám phụ nhân trong ý nghĩa triết học của tướng lý:
Vương Hi Phượng có đôi mắt con đan phượng, đôi mày lá liễu, thân mềm như mạ non, thể thái phong tao, mặt trắng, môi hồng, chưa mở miệng trông đã thấy vẻ cười.
Sử Vương Vân thắt đáy long ong, tay dài như vượn, diện mạo phi thường mỹ lệ, xa trông tưa như con bạch hạc đứng giữa hồ thu.
Tiết Bảo Thoa mắt như hạt thủy hạnh, môi tựa trái anh đào, mi không vẽ mà cong vút như mi con phi thúy.
Nhân vật chính trong truyện là Lâm Đại Ngọc tự Tần Khanh biệt hiệu Tiêu Sương Phi Tử, nguyên quán Cô Tô. Tổ tiên đã bốn đời nối nhau làm công hầu đại quan. Cha nàng là Lâm Hải khoa giáp xuất thân quan chức đến ngự sử.
Lên mười tuổi mẹ đã mất, ở với bà ngoại, bà yêu chiều nâng niu như viên ngọc quý. Cùng ở vườn Đại Quan có Giả Bảo Ngọc là anh em họ với Lâm Đại Ngọc. Buồng của Đại Ngọc cách buồng của Bảo Ngọc chẳng bao xa. Đôi trẻ gặp nhau hàng ngày nên tình căn nảy nở. Nhưng cả hai đều không dám tỏ lộ chỉ tìm cách nghe ngóng động tĩnh để mà vui mà buồn. Cả hai đề không ngờ mối tình nhẹ như mây thu ấy sau này lại là trái oan nước mắt.
Lâm Đại Ngọc vốn là người đàn bà nhu nhược chất dễ sầu oán, mỗi buổi chiều nàng thường ra vườn vun những cách hoa rụng lại rồi mang chôn. Nàng có làm hai câu thơ táng hoa:
Cùng yêu Giả Bảo Ngọc có Tiết Bảo Thoa, nhưng Lâm Đại Ngọc bao giờ cũng thắng. Cuối cùng do bởi sự trái ngang của tình quyến thuộc không cho phép, thêm tình quên và bạc tình của Giả Bảo Ngọc đã đưa đến kết cục Lâm Đại Ngọc thổ huyết ch*t giữa đêm động phòng hoa chúc của người yêu, trước khi thở hơi cuối cùng, nàng vẫn còn gọi tên Bảo Ngọc, Bảo Ngọc.
Đó chính là ý nghĩa triết học của tướng lý.
Chủ đề liên quan:
tướng mệnh đàn bà