Đối với y học hiện đại, phong thấp là một loại bệnh viêm và dị ứng với 4 triệu chứng: co cứng, đau nhức, xung ứ và đặc biệt là gây lo sợ cho bệnh nhân khi thấy bệnh cứ dần dần tiến triển với hình xương dị dạng và sự hạn chế lao động vì đau nhức do tái đi tái lại từng hồi từng lúc theo thời tiết,…
Trong chứng phong thấp có rất nhiều loại Thuốc được sử dụng vì yêu cầu trị liệu rất đa dạng (chống viêm, làm giảm đau, làm hoạt huyết tiêu ứ…) cho nên tùy theo kinh nghiệm của từng thầy Thuốc có thể chọn những cây cỏ nào thích hợp với chứng trạng thì sử dụng. Tuy nhiên, những cây cỏ sau đây được dùng nhiều nhất: chìa vôi, cỏ xước, cốt khí, bưởi bung, chân chim, muồng hòe, cành dâu, cây duối, dây đau xương, thiền liền, dây gấc, hy thiêm, ké đầu ngựa, ớt rừng, lá lốt, phụ tử, thiên niên kiện, tầm gửi, cành thông, vòi voi, quế chi…
Y học cổ truyền cho rằng phong thấp có 5 dạng thể lâm sàng: thể phong, thể hàn, thể thấp, thể nhiệt, thể kiêm chứng hư. Do đó, bài Thuốc cơ bản cũng được cấu tạo theo tính chất trên để tùy theo chứng trạng trội lên mà gia giảm cho thích hợp.
Cách trị phải thanh nhiệt là chủ yếu, cần thêm thổ phục linh, mã đề, thạch cao, rễ trinh nữ, tang bì; vẫn giữ các Thuốc trừ thấp, bổ âm, trừ phong.
Cách trị phải khu phong. Dùng các vị Thuốc phòng phong, tầm gửi, kinh giới, lá lốt, cà gai leo, cỏ xước. Vẫn giữ những Thuốc tán hàn, trừ thấp, thanh nhiệt và bổ âm.
Không sưng nhưng màu da tại khớp tái nhợt, đau thường ít di chuyển, không sốt, không nóng, chườm nóng vào chỗ đau thấy dễ chịu, khớp thường hay biến dạng.
Cách trị là phải trừ thấp bằng các vị Thuốc trạch tả, phục linh, râu bắp, cỏ xước, ý dĩ, thương truật, vẫn giữ Thuốc thanh nhiệt, trừ phong.
Điều trị phong thấp thường kết hợp với Thuốc rượu xoa bóp bên ngoài (quế vụn 20g, ráy dại 10g, địa liền 20g, long não 5g, rượu 600ml, ngâm trong 3 ngày).