Mô tả: Cây nhỏ hay cây gỗ cao 3-6m. Lá hình bầu dục hay trái xoan, nhọn hay tù ở gốc, nhọn thành mũi, có mũi cứng ở đầu, dạng màng, nhẵn hoặc chỉ hơi có lông trên gân. Hoa thành bông đơn hay phân nhánh, hầu như nhẵn. Quả có đường kính 7mm, đỏ rồi đen, nhẵn và có lỗ tổ ong.
Nơi sống và thu hái: Cây mọc ở rừng tới độ cao 400m từ Hà Tây tới Thừa Thiên - Huế và Quảng Nam - Ðà Nẵng.
Mô tả: Cây gỗ nhỏ cao 3-8m. Nhánh cong queo, có lông thưa, sau nhẵn và có màu xám nhạt. Lá hình bầu dục hay hình thoi hẹp hoặc bầu dục tròn, có khi hình tim, mặt dưới đầy lông như nhung. Cụm hoa chuỳ gồm 3-8 bông ở ngọn hay ở nách các lá phía trên. Hoa đực không cuống có 4-5 lá đài; 4-5 nhị có bao phấn hình chữ U; nhuỵ lép có lông. Hoa cái gần như không cuống, có 4 lá đài; bầu có lông mềm, 3-4 đầu nhuỵ. Quả tròn, to 4,5mm, hình bầu dục dẹt. Ra hoa tháng 4-6.
Phân bố, sinh thái: Cây của miền Mã Lai và Châu Đại dương, mọc hoang ven rừng, trong rừng thưa vùng rừng Bảy Núi. Có thể thu hái các bộ phận của cây quanh năm.
Công dụng: Quả ăn được, có vị chua, dùng chữa ho, sưng phối. Hoa chữa tê thấp. Ở Campuchia, vỏ, cành non và lá được sử dụng nhiều hơn. Vỏ chữa ỉa chảy và làm Thu*c bổ. Cành non dùng để điều kinh. Lá dùng ngoài đắp chữa đau đầu.
Cách dùng: - Tiêu chảy, dùng vỏ chòi mòi, vỏ cây van núi và gáo tròn mỗi thứ đều nhau, độ 1 nắm, cho thêm 600ml nước sôi hãm lấy nước chia ra uống 9-3 lần trong ngày.
- Thu*c bả, dùng vỏ chòi mòi và vỏ dứa thơm (lấy 7 miếng vỏ chòi mòi dài 5-6cm, rộng cỡ 2 dốt lóng tay và lượng vỏ dứa thơm cũng tương đương) cho vào nồi, đổ 3 bát nước sắc còn 1/3. Dùng trong ngày. Dùng cho phụ nữ mới sinh uống để lấy lại sức, giữ da dẻ sau khỉ sinh.
- Điều kinh, phối hợp cành non chòi mòi với rễ đu đủ. Dùng mỗi thứ một nắm to (50g) cho vào 2-3 bát nước đun sôi trong 1-2 giờ lấy nước uống trong ngày.
Tình trạng khai thác và bảo vệ tại An Giang: Hiện nay loài cây này rất hiếm gặp trên vùng núi. Cần bảo vệ để mở rộng quần thể.
Bành Thanh Hùng. Sưu tầm và biên soạn từ nguồn: Cây Thu*c An Giang của Võ Văn Chi, Ủy ban khoa học và kỹ thuật An Giang, 1991, tr.121.