Củ nần, Củ nê, Dây nần, Củ nâu trắng - Dioscorea hispida Dennst. (D. triphylla var. reticulata Prain et Burk.), thuộc họ Củ nâu - Dioscoreaceae.
Mô tả: Củ khi còn non có hình cầu nhưng rồi biến đổi, có thuỳ và khi già, củ có thể kép. Thân khoẻ, có thể leo cao tới 30m, có lông mềm với các lông màu vàng nhạt hoặc nhẵn hình trụ, thường có gai nhiều. Lá có 3 lá chét có lông nhẵn trông giống như lá cây củ đậu, lá chét giữa hơi lớn hơn, dài 16cm, rộng 10cm. Cụm hoa to, dài tới 50cm; bông đực dày nhiều nhánh; bông cái thòng. Quả nang dày lông vàng, có cánh rộng ở phía giữa tới 16mm; quả dài tới 55mm, thót lại về phía trên thành một mũi nhọn tù hay tròn. Hạt to, dài 10mm, rộng 6mm, với một cánh lớn màu vàng nâu.
Nơi sống và thu hái: Cây của vùng Ấn Độ - Malaixia, mọc hoang trên các nương rẫy hoang, rừng còi đồng bằng, có nhiều ở các tỉnh phía Nam từ Quảng Trị trở vào; còn ở phía Bắc có gặp ở Bắc Thái, Lạng Sơn. Lá rụng vào mùa khô, mọc lại vào tháng 3-4. Củ nần chỉ dùng sau khi đã loại bỏ các chất độc, cắt ra nhiều khoanh nhỏ ngâm trong nước lã khoảng 3 đến 4 ngày, người ta loại bỏ nước ngâm, rửa sạch nhiều lần bằng nước sạch rồi đem phơi khô ngoài nắng. Khi nấu cũng cần đun sôi để loại bỏ thêm chất độc còn sót lại. Củ nần đã được chế biến cẩn thận dùng làm bánh ăn, nấu xôi ăn trong lúc thiếu lương thực, trong lúc giáp hạt. Ở Philippin người ta cũng dùng Củ nần để ăn. Nói chung củ có độc nhiều, khi dùng làm Thu*c uống cũng phải chế biến cẩn thận, nếu không sẽ bị ngộ độc.
Thành phần hoá học: Trong củ, cũng như trong lá cây. Củ nần có 2 alcaloid độc là dioscorin và dioscorein. Dioscorin là một loại chất độc mạnh mà 10mg có thể giết ch*t một con ngựa. Còn dioscorein là một chất bay hơi và tương đối ít độc hơn. Ở Ấn Độ, người ta đã xác định là có các steroid sapogenin có những vết saponin và cả alcaloid dioscorin và những oxo-base của nó do sự thoái biến. Trong củ có lượng nước ít, nhiều bột, tỷ lệ các hydrat carbon lên tới 76%.
Tính vị, tác dụng: Dioscorin là một alcaloid kết tinh, gây co giật và làm tê liệt trung khu thần kinh. Nhân của chất này thuộc loại quinuclidic được kết một dãy lactonic không trung hoà. Cây có vị ngọt sáp, tính mát, có độc, có tác dụng giải nhiệt, tiêu độc, tiêu sưng, giảm đau, khử ứ, cầm máu. Củ có độc đối với nhiều loại vi khuẩn, côn trùng và động vật, nhưng không có hiệu quả đối với đỉa.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Củ giã đắp trị nhọt độc, sâu quảng, đòn ngã bị thương. Ở Malaixia, người ta dùng nước sắc của thân rễ để uống làm Thu*c lợi tiểu hay thấp khớp mạn tính. Ở Campuchia, người ta sử dụng củ ăn sống kịp thời ngay sau lúc bị rắn hổ mang cắn để ngăn ngừa những biến chứng gây rối loạn trong cơ thể. Ở nhiều vùng của Philippin, Củ nần còn được dùng chữa dịch hạch, phong thấp cấp tính. Người ta nghiền củ thành bột, có thể dùng riêng hoặc phối hợp với dầu Dừa, lá Thu*c lá, lá Cà độc dược hoặc quả Ớt để trị bệnh lở loét ngoài da có giòi của gia súc.
Ở Malaixia cũng như ở Ấn Độ, người ta dùng củ chế Thu*c độc, thường phối hợp với nhựa cây Sui (Antiaris toxicaria) để tăng thêm sức mạnh. Để làm Thu*c độc tẩm các mũi tên, người ta xắt củ, xát và nghiền nát ra rồi cho vào túi vải, lọc lấy nước; chất dịch này được đem phơi nắng cho đậm đặc lại rồi trộn với nhựa cây sui theo tỷ lệ 1/2.
Ghi chú: Củ nần rất độc, một lát xắt củ to bằng quả táo tây đủ để làm ch*t một người lớn trong 6 giờ. Triệu chứng của sự ngộ độc là bắt đầu ngứa trong cổ họng kèm theo nóng rát, rồi choáng váng, nôn ra máu, nghẹt thở và buồn ngủ.