Cúc dùi trống, Rau chuôi, Lưỡng sắc lá nguyên - Dichrocephala bicolor (Roth), Schlecht. (D. latifolia Lam.) DC.), thuộc họ Cúc - Asteraceae.
Mô tả: Cây thảo sống hằng năm, cao 10-60cm, phân nhánh có rãnh, có lông ngắn. Lá mỏng, phiến xoan ngược, hình dàn lia thon hẹp ở gốc, có răng thuỳ, dài 4-8 cm, rộng 2-3cm. Cụm hoa là những chuỳ ở nách hay ở ngọn, ít hoa; đầu hoa hình cầu trắng, to cỡ 4-5mm, có 7-8 dây hoa cái; còn các hoa lưỡng tính có ít và tập trung ở giữa; lá bắc nhiều, hình trái xoan, nhọn. Quả bế hình bầu dục, dẹp, dài 1,25mm, có vòng mép khá rõ.
Nơi sống và thu hái: Thường gặp ven đường, bãi cát, ruộng hoang, vùng núi cao và trung du miền Bắc của nước ta tới các tỉnh Tây Nguyên. Còn phân bố ở nhiều nước Đông Nam Á. Thu hái toàn cây vào mùa hè, rửa sạch, dùng tươi hay phơi và sấy khô để dùng dần.
Tính vị, tác dụng: Cúc dùi trống có vị đắng và chua cay, tính bình; có tác dụng hoạt huyết, điều kinh, tiêu viêm, tiêu sưng, lợi tiểu và làm toát mồ hôi.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Lá và ngọn non nấu canh ăn được. Ta thường dùng toàn cây với liều 10-15g sắc uống chữa kinh nguyệt không đều, bong gân. Dùng ngoài giã cây tươi đắp trị đinh nhọt, rắn cắn. Ở Campuchia, các cây non được dùng sắc nước phối hợp với các vị Thu*c khác để rửa cơ quan Sinh d*c nữ khi bị bệnh lậu, khí hư, và các vết đốt, vết cắn của sâu bọ, nhện và bò cạp. Ở Inđônêxia (Java) người ta dùng nước sắc các chồi hoa làm Thu*c uống cho ra mồ hôi và lợi tiểu. Ở Trung Quốc (Hải Nam), người ta dùng cả cây trị cảm sốt, đau bụng ỉa chảy, viêm gan, viêm họng, lở miệng, bắp thịt nung mủ, mẩn ngứa.