Mô tả: Cây gỗ cao 10-15m, phân cành nhiều, có vỏ dày và sù sì. Lá mọc đối, hình trái xoan thuôn, nguyên, nhọn, dài 10-18cm, rộng 4-5cm, có 3 gân chính rõ. Cụm hoa là những xim có hoa đều, màu trắng, đế hoa dạng chén, trên mép chén dính các mảnh bao hoa và các nhị; bầu 1 ô chứa 1 noãn ở gốc đáy chén. Quả mọng, dài 1-1,5cm, màu đen.
Nơi sống và thu hái: Cây mọc hoang và cùng được trong từ Nghệ An trở vào Côn Sơn, Phú Quốc. Còn phân bố ở Tây Ấn Ðộ, Xri Lanca và được trồng ở nhiều xứ nhiệt đới khác. Lúc cây đến độ cao 1,5-2m, người ta cắt sắt gốc để nó đâm nhiều nhánh, chỉ cần giữ 4-6 nhánh mỗi gốc. Ðến 3-4 năm và cứ 2 năm một, vào mùa mưa, người ta lấy vỏ. Người ta lột từng khoanh; sau khi phơi khô, cạo bỏ phần bần.
Thành phần hóa học: Vỏ Quế quan chứa 8-12% nước, 5% chất khoáng, tinh bột, một ít đường, tanin, 3-4% chất nhầy. Hoạt chất là tinh dầu 1-2% mà thành phần chính là aldehyd cinamic (50-75%) kèm theo eugenol (4-10%), vết của các aldehyd khác của các carbur terpenic (pinen, phellandren, caryophyllen) và của methylamylceton. Tinh dầu vỏ rễ có nhiều eucalyptol, eugenol, safrol và borneol.
Tính vị, tác dụng: Vỏ có vị cay, mùi thơm, tính nóng; có tác dụng bổ, kích thích. Do có tanin, Quế quan làm săn da nhẹ.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Cũng dùng như Quế. Thường dùng dưới dạng bột hay Thu*c nước. Tinh dầu cũng được dùng làm Thu*c. Với liều thấp, nó gây kích thích hệ thần kinh, tăng hô hấp và nhịp tim và là một chất kháng sinh; nó còn dùng thúc đẻ, kích thích ruột và trừ giun. Với liều cao, nó gây co giật.