Sa nhân, sa nhân đỏ, sa nhân thầu dầu hay mè tré bà (danh pháp hai phần: Amomum villosum) là loài thực vật thuộc họ Gừng được trồng ở khắp vùng Đông Nam Á và Hoa Nam. Hạt sa nhân đỏ sau khi chín sẽ khô và có mùi thơm mạnh, được dùng làm gia vị và làm Thu*c trong Đông y
Tên khác: Zingiber villosum (Lour.) Stokes, Cardamomum villosum (Lour.) Kuntze, Amomum echinosphaera K. Schum. ex Gagnep.;
Mô tả: Cây thảo cao 2-2,5m, có thân rễ bò ngang mang vẩy và rễ phụ, tạo ra những thân khí sinh, loại mang lá, loại mang hoa. Lá mọc so le, xếp 2 dãy; có bẹ dài, phiến trải ra, hình xoan thon, dài đến 40cm, rộng 8cm, hai mặt không lông; cuống ngắn. Cụm hoa cao 6-8cm, trải ra trên mặt đất, ở gốc có vẩy và có những lá bắc mọc so le; hoa thưa; 5-10, màu vàng vàng; đài 17mm, có 3 răng; tràng hoa hình ống, có phiến chia 3 thuỳ thuôn và dài 13mm; nhị có chỉ nhị dài bằng bao phấn; cánh môi dạng mo, đầu lõm, có 2 nhị lép ở gốc. Quả hình trái xoan dài 1,5-cm, rộng 1,2-1,5cm phủ gai nhỏ cong queo.
Nơi sống và thu hái: Loài của Trung Quốc, Việt Nam. Cây mọc hoang ở rừng núi Hà Tây, Hải Hưng qua Thanh Hoá, Phú Yên đến Đồng Nai. Thu hái quả lúc gần chín (mùa hè - thu), bóc vỏ lấy khối hạt màu trắng đem phơi khô.
Thành phần hoá học: Trong quả sa nhân có tinh dầu mà thành phần chủ yếu có D-camphor, D-borneol, D-formylacetat, D-limonen, phellandren, a-pinen, paramethoxy etyl cinnamat, nerolidol, linalol.
Tính vị, tác dụng: Vị cay, mùi thơm, tính ấm; có tác dụng hoá thấp khai vị, ôn tỳ chỉ tả, lý khí an thai.
Công dụng: Sa nhân được dùng làm Thu*c chữa bụng và dạ dày trướng đau, ăn uống không tiêu, nôn mửa, viêm ruột ỉa chảy, lỵ, động thai. Liều dùng 3-6g, dạng Thu*c sắc hoặc hoàn tán. Thường phối hợp với các vị Thu*c khác.