Dây leo to, đường kính 3-6cm, thân và cành có rãnh dọc, màu trắng ngà, có lông. Thân già màu xám xù xì. cắt ngang có hình bánh xe với những tia tủy hình nan hoa bánh xe, màu vàng tươi. Lá có cuống dính ở 1/5 đến 1/7 của phiến, phiến hình ba cạnh, nhọn, đẩu tận cùng bằng một móc hình sợi, dài 20-24cm, rộng 14-16cm, mặt trên màu xanh tươi, mặt dưới màu trắng ngà, gân lá hình chân vịt có 5-9 gân tỏa ra xung quanh. Vì thân và rễ có màu vàng như cây hoàng đằng, nhưng lá có gân hình chân vịt, do đó được đát tên hoàng đằng chân vịt để phân biệt với cây hoàng đằng. Cuống lá chỉ ngắn 2 phần chiều dài của lá. Cụm hoa mọc ở kẽ lá, phân nhánh, nhánh phía dưới dài hơn, có thể dài tới 7cm. Hoa hình đầu hay hình trứng. Quà hạch hình cầu, hơi dẹt, có phủ lông, đường kính 5mm. Nhân hlnh mắt chim, lồi ở hai mặt, với 8 vòng đồng tâm những mấu xù xì.
Người ta dùng thân cây và rễ cây hoàng đằng chân vịt. Thu hái gần như quanh năm. Hái về thái mỏng, phơi hoặc sấy khô. Không phải chế biến gì đặc biệt. Có nơi dùng thân để nhai cùng với trầu không.
Trong hoàng đằng chân vịt, có ancaloit, chủ yếu là becberin với tỷ lệ từ 1,5 đến 2% (Nguyễn Liêm và cộng sự, 1975).
Trong điều trị, hoàng đằng chân vịt dùng chữa bệnh đau mắtt, ỉa chảy lỵ, sốt, sốt rét, bệnh về gan, mật, lòi dom.