Chó đẻ, chó đẻ răng cưa, răng cưa, cam kiềm, rút đất - phyltanthus urinaria l., thuộc họ thầu dầu -euphorbiaceae.
Cây thảo sống hằng năm hay sống dai, cao 20 - 30cm, có thân màu đỏ, thường phân nhánh nhiều; nhánh có gốc, có cánh. Lá mọc so le, xếp hai dãy sít nhau, do đó mỗi nhánh nom như một lá kép lông chim, mỗi lá thực sự hình thuôn bầu dục hay trái xoan ngược, mặt trên màu xanh nhạt, mặt dưới mốc mốc. Hoa mọc ở nách lá, hoa đực ở ngọn cành, hoa cái đơn độc ở gốc cành, tất cả hầu như không cuống, hoặc có cuống ngắn. Quả nang hơi đỏ, hình cầu đường kính 2mm, có gai nhỏ chứa 6 hạt hình tam giác màu sôcôla nhạt.
Toàn cây - Herba Phyllanthi, thường gọi Diệp hạ châu. Nơi sống và thu hái: Loài cây liên nhiệt đới, phân bố ở Ân Độ, Trung Quốc, Thái Lan, các nước Đông Dương. Ở nước ta, cây mọc hoang khắp nơi, thường thấy ở các bãi cỏ ruộng đất hoang, tới độ cao 500m. Thu hái toàn cây vào mùa hè thu, rửa sạch, thái ngắn, dùng tươi hay phơi héo, bó lại phơi trong râm đê dùng.
Trong cây có các acid, các triterpen một vài alcaloid và các dẫn xuất phenol. Gần đây, từ lá, người ta đã trích được acid ellagic, acid gallic, một acid phenolic và một flavonoid; chất thứ nhất không tan trong nước, các chất sau tan trong nước nóng; còn có một chiết xuất tinh gọi là coderacin.
Chó đẻ răng cưa có vị ngọt hơi đắng, tính mát, có tác dụng lợi tiêu, tiêu độc, sát trùng, tán ứ, thông huyết, điều kinh, thanh can, sáng mắt, làm se và hạ nhiệt. người ta cũng đã nhận thấy tác dụng diệt khuẩn và diệt nấm rõ rệt của acid phenolic và ílavonoid trong chó đẻ răng cưa, coderacin dùng chế Thu*c nhỏ mắt và Thu*c mỡ tra mắt, nó có khả năng diệt một số vi khuẩn, nấm và mốc, chủ yếu là các mầm gây bệnh đối với mắt.
Thường được dùng chữa đau yết hầu, viêm cổ họng, đinh râu, mụn nhọt, viêm da thần kinh, lở ngứa, sản hậu ứ huyết, trẻ em tưa lưỡi, chàm má. Còn dùng trị rắn cắn. Liều dùng 8 - 16g cây khô sắc nước uống, hoặc dùng cây tươi giã chiết lấy dịch uống hoặc vắt lấy nước bôi và lấy bã đắp. Cây tươi còn có thê giã nát đắp chữa các đầu khớp sưng đau.
Ở trung quốc, người ta dùng chó đê răng cưa đê chữa: 1. viêm thận phù thũng; 2. viêm niệu đạo và sỏi niệu đạo, viêm ruột, lỵ, viêm kết mạc, viêm gan; 3. trẻ em cam tích, suy dinh dưỡng.
những rối loạn đường niệu Sinh d*c và làm Thu*c duốc cá. Rễ cây dùng cho trẻ em mất ngủ. Ở Campuchia, người ta dùng cây sắc uống, dùng riêng hoặc phối hợp với các vị Thu*c khác trị các bệnh về gan, trị kiết lỵ, sốt rét. Ở Thái Lan, cây được dùng trị các bệnh đau dạ dày, bệnh hoa liễu, vàng da, trĩ và lỵ. Cây non được dùng làm Thu*c ho cho trẻ em.
Chữa nhọt độc, sưng đau; dùng chó đẻ răng cưa một nắm với một ít muối giã nhỏ, chế nước chín vào, vắt lấy nước cốt uống, bã ðắp chỗ đau (bách gia trân tàng).
Chữa bị thương, vết đứt chảy máu, dùng chó đẻ răng cưa với vôi giã nhỏ, đắp vào vết thương (bách gia trân tàng).
Chữa bị thương ứ máu: dùng lá, cành chó để răng cưa và mần tưới, mỗi thứ một nắm, giã nhỏ chế nước đồng tiện vào, vắt lấy nước uống, bã thì đắp. hoặc hoà thêm bột đại hoàng 8 - 12g càng tốt (hoạt nhân toát yếu).
Chữa mắt đau sưng đỏ, viêm gan vàng da, viêm thận đái đỏ, hoặc viêm ruột đi ngoài ra nước; dùng chó đẻ răng cưa 40g, mã đề 20g, dành dành 12g sắc uống.
Chữa lở loét thối thịt không liền miệng; dùng lá chó đẻ răng cưa. lá thồm lồm, liều bằng nhau. đinh hương 1 nụ, giã nhỏ đắp (bách gia trân tàng).