Các cây bạn ghi trong thư đều có trong sách “Những cây Thu*c và vị Thu*c Việt Nam” của cố giáo sư Đỗ Tất Lợi. Theo sách thì cây mắc cỡ (cây xấu hổ) và lá lốt là những vị Thu*c xếp vào nhóm chữa các bệnh tê thấp - đau nhức xương; còn đinh lăng được xếp vào nhóm Thu*c bổ dưỡng. Sau đây là một số cách dùng các vị Thu*c trên trong nhân dân đã có từ lâu để bạn tham khảo.
Cây đinh lăng: Lá đinh lăng non dùng để ăn sống với nem hoặc gỏi, có nơi dùng lá đinh lăng sao hoặc phơi khô nấu nước uống hằng ngày thay nước chè,... Chữa vết thương bầm đau: giã nát lá đinh lăng đắp lên; Rễ đinh năng phơi khô thái mỏng 0,5g thêm 100ml nước, đun sôi trong 15 phút, chia 2-3 lần uống trong ngày chữa mệt mỏi, hoặc rễ đinh lăng 30-40g, thêm 500ml nước sắc còn 250ml uống nóng. Uống liền 2-3 ngày, vú hết nhức, sữa chảy bình thường chữa thông sữa, vú căng sữa. Lá lốt dùng làm gia vị, cả cây được sắc nước uống chữa đau xương, thấp khớp, tê thấp, đổ mồ hôi tay, chân,... Ngày dùng 5-10g lá phơi khô hay 10-30g lá tươi sắc lấy nước uống 2-3 lần trong ngày, hoặc dùng dưới dạng Thu*c sắc rồi cho ngâm chân hay tay đổ mồ hôi. Để chữa chân tay đau nhức dùng: lá lốt, rễ bưởi bung, rễ cây vòi voi, rễ cỏ xước, tất cả đều dùng tươi thái mỏng sao vàng, mỗi vị đều bằng nhau 15g khô, sắc với 600ml nước còn 200ml. Chia 3 lần uống trong ngày.
Cây xấu hổ có tác dụng chống mất ngủ, giảm đau. Hằng ngày dùng lá cây xấu hổ 6-12g sắc nước uống trước khi đi ngủ. Rễ cây xấu hổ được dùng chữa bệnh nhức xương. Rễ cây xấu hổ thái mỏng phơi khô, ngày dùng 120g rang sau đó tẩm rượu 35-40 độ rồi lại rang khô. Thêm 600ml nước sắc còn 200-300ml, chia 2-3 lần uống trong ngày. Thường dùng 4-5 ngày thấy kết quả.
Tuy nhiên, cả ba thứ này cùng sắc với nhau thì tác dụng của nó chưa có sách nào ghi cụ thể về liều lượng khi phối hợp với nhau. Do đó, theo tôi bạn không nên tự ý dùng. Nếu đau bạn có thể áp dụng các bài Thu*c như nói trên cho an toàn. Nếu không đỡ mà bạn muốn dùng Thu*c nam để điều trị đau khớp thì nên đi khám phòng mạch để được bắt mạch kê đơn dùng đúng bệnh