Cây thuốc quanh ta hôm nay

Hoa đào, hoa mai - Vị Thuốc của mùa xuân

Với vẻ đẹp tao nhã và hương thơm thanh khiết, hoa đào, hoa mai không những có giá trị thẩm mỹ sâu sắc mà còn là những vị Thuốc hay, độc đáo của y học cổ truyền.

Hoa đào, hoa mai chỉ nở vào mùa xuân. Với vẻ đẹp tao nhã và hương thơm thanh khiết, hoa đào, hoa mai không những có giá trị thẩm mỹ sâu sắc mà còn là những vị Thuốc hay, độc đáo của y học cổ truyền. Xin giới thiệu một số bài Thuốc từ hai loại hoa này.

Hoa đào

Theo Đông y, hoa đào vị đắng, không độc. Lợi đại tiểu tiện, trục giun sán, tan sỏi thận, thông kinh huyết, hóa đàm, chữa điên loạn. Có thể sắc uống hoặc tán bột 4 - 8g/ngày. Dùng ngoài tán bột rắc lên vết thương hoặc giã đắp.

Chữa thủy thũng: hoa đào lượng vừa đủ, nghiền bột, mỗi lần lấy 6g cho vào nước cháo loãng, uống lúc đói. Ngày 3 lần hoặc nấu cháo hoa đào ăn.

Chữa táo bón: bột hoa đào 30g, bột mì 100g làm bánh ăn, hoặc bột hoa đào 10g chia 2 lần hòa nước ấm uống lúc đói.

Chữa đau eo lưng: hoa đào 100g, gạo nếp 500g, hoa đào giã vụn, trộn gạo nếp cho nước nấu thành cơm khô để nguội rồi cho men rượu ủ thành cơm rượu dùng dần.

Chữa liệt dương: hoa đào, hoa hồng, hoa tường vi, hoa mai, hoa hẹ, trầm hương mỗi thứ 30g, nhân hạt đào 240g, rượu 2.500ml. 7 vị trên cho vào túi lụa treo vào trong 1 hũ sành sứ bịt kín miệng hũ. Ngâm 1 tháng, mỗi lần uống 20ml, ngày uống 2 lần vào 2 bữa ăn chính.

Chữa bế kinh: hoa đào 25g ngâm vào 250ml rượu trong 1 tuần. Mỗi lần uống 10ml hòa với nước ấm, hoặc hoa đào 10g cho vào cơm rượu 50g trộn đều, chưng cách thủy cho nhừ hoa để bớt nóng, ăn cả cơm và hoa. Ngày 1 lần, liền 1 tuần.

Chữa sỏi thận: hoa đào, hổ phách mỗi vị 6g. Nghiền hoa đào trộn đều với hổ phách mỗi lần 6g cho vào 1 tô lớn nước, nấu trong nửa giờ, lọc lấy nước uống. Ngày 2 lần.

Chữa lở ngứa da mặt: hoa đào, nhân hạt bí đao, lượng bằng nhau. Gộp hai thứ tán bột hòa mật mía, bôi vào chỗ lở ngứa.

Lưu ý: Không dùng hoa đào cho phụ nữ có thai.

Hoa mai trắng

Mai trắng được dùng làm Thuốc phổ biến hơn so với mai vàng. Theo Đông y, mai trắng tính mát, vị chua chát, không độc. Công năng khai vị, tan uất kết, bình can hòa vị, lợi phế khí, hóa đàm, an thần định phách, giải đậu độc. Dùng dạng sắc, bột hoặc viên hoàn, đắp dán ngoài.

Chữa mất ngủ: hoa mai trắng 5g, hoa hợp hoan 10g, rượu cúc 50ml, cho hoa vào rượu chưng cách thủy cho nhừ hoa để ấm, uống sau bữa cơm tối 1 giờ.

Chữa chán ăn: hoa mai trắng 6g, hoa đậu ván trắng 15g, quả sơn tra khô 20g, trộn đều 3 thứ rồi chia đều 3 phần để dùng làm 3 lần. Khi dùng lấy 1 phần cho vào ấm rót nước sôi già để cho nguội bớt, rót ra uống.

Chữa viêm họng: hoa mai trắng 6g, hoa dành dành 5g, trà xanh 20g, gộp 3 thứ lại trộn đều chia ra 5 phần để dùng mỗi lần 1 phần, cho vào tách nước sôi già cho ngấm rồi uống.

Phòng, chữa bệnh sởi, thủy đậu: hoa mai 100 bông hái vào sáng sớm khi còn đẫm sương của tháng 12 âm lịch. Đem số hoa đó ướp vào đường trắng, mỗi lần ăn 3 - 5 bông. Ngày ăn 3 lần.

BS. Phó Đức Thuấn

Mạng Y Tế
Nguồn: Nguồn Internet (news-hoa-dao-hoa-mai-vi-thuoc-cua-mua-xuan-6360.html)

Tin cùng nội dung

  • Tết đến, các gia đình thường mua hoa để trưng bày trong nhà. Tuy nhiên, ít ai biết được rằng, bên cạnh vẻ đẹp, các loại hoa Tết như đào, hoa hồng, cúc vạn thọ, hoa mào gà… còn là những vị Thuốc quý.
  • Các loại rau thơm không chỉ làm cho các món ăn thêm hấp dẫn, mà còn góp phần không nhỏ trong việc phòng và chữa bệnh.
  • Đan sâm cải thiện tuần hoàn mạch vành, giảm đau thắt ngực, ngăn ngừa xơ vữa, tiêu cục máu đông – vị Thuốc không thể thiếu trong Đông y để trị bệnh tim mạch
  • Đi dưới cái nắng dát vàng trong tiết trời se se lạnh, tôi chợt nhận ra - mùa xuân đã về! Mỗi năm vào độ xuân mới, hoa mai anh đào nở thắm trên những con đường dốc núi quanh co, bên bờ các hồ, thác, trên những sườn đồi, bên mái phố, hiên nhà… Đà Lạt như bức tranh đa sắc màu và lãng mạn vô cùng.
  • Khi bị đầy bụng, khó tiêu, ngoài việc nên tránh những thức ăn khó tiêu như dầu, mỡ động vật, và nên ăn các loại thức ăn dễ tiêu, nấu mềm, chúng ta có thể dùng các vị Thuốc có tác dụng kích thích tiêu hóa là những quả, cây, lá có sẵn trong vườn nhà, vừa không tốn kém lại không gây hại cho cơ thể.
  • Cây qua lâu (trichosanthes kirilowi maxim.) thuộc họ bí (cucurbitaceae), có tên khác là dưa trời, dưa núi, hoa bát, vương qua (tên gọi ở miền Bắc, dây bạc bát, bát bát châu (tên miền Nam), người Tày gọi là thau ca.
  • Các dược liệu này sau khi ngâm tẩm bằng rượu, có thể sử dụng độc vị, hoặc phối hợp với các vị Thuốc hình thành bài Thuốc ngâm rượu, hoặc sắc uống có tác dụng bồi bổ cơ thể sau khi suy nhược về khí huyết, ngũ tạng hư suy, giúp cân bằng âm dương phòng và chữa bệnh rất tốt, hiệu quả góp phần cải thiện sức khỏe.
  • Theo Đông y, gừng khô vị cay, tính ôn; vào các kinh tâm, tỳ, phế và vị. Có tác dụng ôn trung tán hàn, hồi dương thông mạch.
  • Nhót được trồng ở khắp các vùng miền trong cả nước. Lá nhót chứa tanin, saponosid, polyphenol. Quả nhót chứa rất nhiều chất dinh dưỡng, được dùng để nấu canh chua, vị thơm; quả nhót xanh, thái ngang dày 3 - 5mm, phơi hoặc sấy khô để làm Thuốc.
  • Hoa hòe là hòe mễ, mễ là hạt gạo, ý nói vị Thuốc từ hoa hòe, có kích thước chỉ bằng hạt gạo, nghĩa là còn ở dạng nụ hoa, mới được dùng làm Thuốc.
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY