Tục ngữ có câu: “Bệnh tòng khẩu nhập hoạ tòng khẩu xuất”. Bởi thế cái miệng quan hệ đến vận mạng nhân sinh nhiều lắm.
Sách lại nói: “Ngôn vi tâm thanh”, lời nói là tiếng của con tim. Một lời có thể dựng nước, có thể làm mất nước, tạo hoạ tác phúc.
Vì chính trực quá nên nói lanh chanh, có người nói quá sự thật, có người đắc chí nên nói bậy, nói láo, có người chuyên đi nói xấu.
Có người suốt đời hưởng bổng lộc triều đình, có người sống nhờ tiền cha của mẹ, có người quanh năm ngày tháng tràn trề miếng ngon thức béo, có người cả đời chẳng có lấy bữa no, có người bao nhiêu tiền ăn hết bấy nhiêu, có người bóp mồm bóp miệng.
Đoan trang phúc hậu, không nói lung tung là người có khẩu đức. Ưa chửi bới, phá phách gọi là khẩu tặc.
Lúc nào cũng tỏ ra không sợ ch*t trên cửa miệng, lúc nào cũng muốn nói rằng mình là kẻ trung tín, lâm sự là biến đổi phản trắc ngay.
Thích nói lời khinh bạc chua chát thường đoản thọ, khốn cùng hoặc cô độc. Thông minh như vậy chẳng bằng ngu si an lành.
Cưỡi ngựa đẹp, mặc áo lông cừu biểu tượng của phú quý, đồng thời cũng là ý vị nho nhã anh hào. Loại trọc phú có thể cưỡi ngựa mặc áo lông cừu nhưng không thể anh hào nho nhã. Được vậy nhờ ở cái miệng phương thành tứ vực. Miệng đã vuông vắn, nhân trung lại dài sâu, cằm chắc chắn, hai bên pháp lệnh oai nghiêm mới gọi là phương thành.
Người nào nuốt nổi nắm tay há ra thật lớn, thu lại gọn ghẽ. Tuy nhiên không phải cho lọt quả đấm vào miệng mà tự cho mình xuất tướng nhập tướng. Nếu các bộ vị khác bất thành thì cái miệng rộng ấy bất quá chỉ làm anh thổi ống loa thôi.
Môi đầy đặn, tính người trung lương trí tuệ. Đầy đặn chớ đừng phù thũng như hai miếng thịt trâu bò, thô tục ngu si.
Môi trên môi dưới bằng nhau và phải che kín răng. Không che kín tất tiền tài phá hao khó dành dụm, dễ chiêu hung sinh phiền não.
Môi rất cần màu hồng nhuận sáng nói lên phẩm cách tốt, tự trọng, tín nghĩa đồng thời cũng là người biết hưởng thụ.
Miệng ngậm lại thì nhỏ, mở ra lại rộng rất tốt, chứng tỏ là người tài năng mà đức độ, biết tiến biết thoái. Nó là cái triết lý.
Miệng môi thật dầy, không có khía môi, mở miệng dãi hay chảy xuống mép, môi luôn luôn động là mã khẩu, bần tiện cơ hàn.
Môi mỏng là không có gờ, góc miệng trễ xuống, cằm lẹm, răng lộ ra ngoài là phong khẩu (miệng ong), tướng cô độc, hình thê hại tử.
Tướng nói khoác, đại ngôn, mười voi không được bát nước sáo, cố tạo hư thanh để mong thực lợi hoặc vì bất tài mà lại nhiều tự ái, hoặc bởi nói khoác đã thành tính, thường thấy ở trên mặt những người có cái miệng rộng hoác, nằm chơ chơ không thu nhỏ lại được, mở hay khép cũng một hình thù.
Như điểu chuỷ nghĩa là như mỏ chim, môi trên rộng đè xuống môi dưới nhọn ra giống mỏ con chim. Miệng kiểu này thuộc dị tướng. Nếu các bộ vị khác đẹp tốt thì cái miệng quý bất khả ngôn. Trí tuệ cực cao, kín đáo, vui giận buồn không lộ ra nét mặt, nhẫn nại vô cùng, quyết đoán, chí lớn có khả năng vượt sóng gió khốn cùng lập thành công nghiệp vĩ đại. Tuy nhiên, người có tướng miệng mỏ chim thường tàn nhẫn, tham vọng đặt lên trên hết, cho nên vong ân bội nghĩa.
- Người ấy cổ dài, miệng mỏ chim, có thể ở cùng với nhau khi hoạn nạn nhưng không thể ở cùng lúc đắc ý.
Bởi thế, diệt xong Ngô Vương Phù Sai, Phạm Lãi bỏ Việt Câu Tiễn trốn đi tránh khỏi cái hoạ Văn Chủng bị Câu Tiễn giết.
Kiếm đàm là tay kiếm ngăn đôi lưỡi kiếm và cán kiếm. Miệng kiếm đàm lớn và góc cong lên, ngay ngắn, tướng trung hậu, nghĩa sĩ có thể gửi tính mạng, sứ mạng của mình cho người ấy mà không sợ bị phản bội.
Thân hình to lớn, mặt mũi nở nang mà hai răng cửa gẫy vẫn là kẻ tầm thường, vô dụng.