Cây thuốc quanh ta hôm nay

Mạch môn đông - vị Thuốc dân gian

Mạch môn đông là một loại cỏ sống lâu năm, cao 10 - 40cm, rễ chùm, trên rễ có những chỗ phát triển thành củ mẫm.
Hỏi: Vùng tôi ở có cây mạch môn đông là cây Thuốc. Tuy nhiên, tôi không biết cách thu hái, chế biến cây Thuốc này...

(Nguyễn Thị Thanh Thúy - Hà Nội)

Trả lời: mạch môn đông còn có tên là mạch đông, cây lan tiên.

Tên khoa học Ophiopogon japonicus Wall.

Thuộc họ Hành tỏi Liliaceae.

Người ta dùng rễ củ phơi hay sấy khô (Radix Ophiopogoni) của cây mạch môn đông. Vì lá giống lá lúa mạch, về mùa đông lá vẫn xanh tươi nên gọi là mạch đông.

Mô tả cây

mạch môn đông là một loại cỏ sống lâu năm, cao 10 - 40cm, rễ chùm, trên rễ có những chỗ phát triển thành củ mẫm. Lá mọc từ gốc, hẹp dài, như lá lúa mạch dài 15 - 40cm, rộng 1 - 4mm, phía cuống hơi có bẹ, mép lá hơi có răng cưa. Cán mang hoa dài 10 - 20cm, hoa màu xanh nhạt, cuống 3 - 5mm, tụ thành 1 - 3 hoa ở kẽ các lá bắc trắng nhạt. Quả mọng màu tím đen nhạt, đường kính 6mm, có 1 - 2 hạt

Phân bố thu hái và chế biến

Mọc hoang và được trồng ở Việt nam để lấy củ dùng làm Thuốc, nhiều nhất ở Phùng, Ninh Hiệp (Hà Nội), Nghĩa Trai (Hưng Yên). Thường hái vào tháng 6 - 7 ở những cây đã được 2 - 3 năm. Chọn những củ già, cắt bỏ sạch rễ con, rửa sạch đất, củ to trên 6mm bổ làm đôi, củ nhỏ để nguyên phơi khô tước bỏ lõi trước khi dùng. Có khi hái về, dùng móng tay rạch củ, tước bỏ lõi, rang với gạo cho đến khi gạo có màu vàng nhạt, bỏ gạo lấy mạch môn mà dùng. Củ mạch môn hình thoi, màu vàng nhạt, hơi trong, dài 10 - 15mm. Mùi đặc biệt, vị ngọt.

Công dụng và liều dùng

Còn ở trong phạm vi nhân dân. Nhưng là một vị Thuốc rất thông dụng. Dùng làm Thuốc ho long đàm, Thuốc bổ (bệnh phổi, gầy còm). Còn dùng chữa thiếu sữa, lợi tiểu, chữa sốt khát nước. Ngày dùng từ 6 - 20g dưới dạng Thuốc sắc.

Theo tài liệu cổ, mạch môn có vị ngọt, hơi đắng tính hơi hàn, vào 3 kinh tâm, phế và vị. Có tác dụng thanh tâm, nhuận phế, dưỡng vị sinh tân, hóa đờm, chỉ ho, dùng chữa hư lao, ho, thổ huyết, ho ra máu, miệng khô khát, bệnh nhiệt tân dịch khô. Những người tỳ vị hư hàn, đại tiện lỏng không dùng được.

Đơn Thuốc có mạch môn đông

Bài Thuốc chữa bệnh ho, khó thở, ho lâu ngày:

mạch môn đông 16g, bán hạ 8g, đảng sâm 4g, cam thảo 4g, gạo nếp sao vàng 4g, đại táo 4g, nước 600ml. Sắc còn 200ml. Chia làm 3 lần uống trong ngày (đơn Thuốc của Trương Trọng Cảnh).

Chú thích: ngoài rễ của cây mạch môn đông, ta còn dùng rễ củ phơi khô của cây tóc tiên Liriope spicata Lour cùng họ. Đó là một loại cỏ sống lâu năm, thân rễ ngắn, dày, rễ chùm, lá hẹp dài mọc từ gốc, dài 30cm, rộng 4 - 7mm cọng mang ho thường ngắn hơn lá, hoa màu hơi tím, hợp thành xim 3 - 5 hoa. Quả mọng, màu xanh tím. Cùng một công dụng nhưng hiệu lực không bằng.

(Theo Những cây Thuốc và vị Thuốc Việt Nam)

của GS. ĐỖ TẤT LỢI

Mạng Y Tế
Nguồn: Nguồn Internet (news-mach-mon-dong-vi-thuoc-dan-gian-6234.html)
Từ khóa: mạch môn đông

Chủ đề liên quan:

mạch môn đông vị thuốc

Tin cùng nội dung

  • Dùng rượu làm phụ liệu có ý nghĩa tăng tính ấm cho vị Thuốc, làm cho khí vị của Thuốc đi lên trên thượng tiêu.
  • Tết đến, các gia đình thường mua hoa để trưng bày trong nhà. Tuy nhiên, ít ai biết được rằng, bên cạnh vẻ đẹp, các loại hoa Tết như đào, hoa hồng, cúc vạn thọ, hoa mào gà… còn là những vị Thuốc quý.
  • Các loại rau thơm không chỉ làm cho các món ăn thêm hấp dẫn, mà còn góp phần không nhỏ trong việc phòng và chữa bệnh.
  • Đan sâm cải thiện tuần hoàn mạch vành, giảm đau thắt ngực, ngăn ngừa xơ vữa, tiêu cục máu đông – vị Thuốc không thể thiếu trong Đông y để trị bệnh tim mạch
  • Khi bị đầy bụng, khó tiêu, ngoài việc nên tránh những thức ăn khó tiêu như dầu, mỡ động vật, và nên ăn các loại thức ăn dễ tiêu, nấu mềm, chúng ta có thể dùng các vị Thuốc có tác dụng kích thích tiêu hóa là những quả, cây, lá có sẵn trong vườn nhà, vừa không tốn kém lại không gây hại cho cơ thể.
  • Cây qua lâu (trichosanthes kirilowi maxim.) thuộc họ bí (cucurbitaceae), có tên khác là dưa trời, dưa núi, hoa bát, vương qua (tên gọi ở miền Bắc, dây bạc bát, bát bát châu (tên miền Nam), người Tày gọi là thau ca.
  • Các dược liệu này sau khi ngâm tẩm bằng rượu, có thể sử dụng độc vị, hoặc phối hợp với các vị Thuốc hình thành bài Thuốc ngâm rượu, hoặc sắc uống có tác dụng bồi bổ cơ thể sau khi suy nhược về khí huyết, ngũ tạng hư suy, giúp cân bằng âm dương phòng và chữa bệnh rất tốt, hiệu quả góp phần cải thiện sức khỏe.
  • Theo Đông y, gừng khô vị cay, tính ôn; vào các kinh tâm, tỳ, phế và vị. Có tác dụng ôn trung tán hàn, hồi dương thông mạch.
  • Nhót được trồng ở khắp các vùng miền trong cả nước. Lá nhót chứa tanin, saponosid, polyphenol. Quả nhót chứa rất nhiều chất dinh dưỡng, được dùng để nấu canh chua, vị thơm; quả nhót xanh, thái ngang dày 3 - 5mm, phơi hoặc sấy khô để làm Thuốc.
  • Hoa hòe là hòe mễ, mễ là hạt gạo, ý nói vị Thuốc từ hoa hòe, có kích thước chỉ bằng hạt gạo, nghĩa là còn ở dạng nụ hoa, mới được dùng làm Thuốc.
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY