Cây thuốc quanh ta hôm nay

Ngọc trúc - Vị Thuốc cường tim

Ngọc trúc là vị Thuốc được ghi đầu tiên trong sách Bản kinh với tên nữ ủy là dược liệu (Rhizoma polygonati Odorati),
ngọc trúc">ngọc trúc là vị Thuốc được ghi đầu tiên trong sách Bản kinh với tên nữ ủy là dược liệu (Rhizoma polygonati Odorati), cây ngọc trúc">ngọc trúc có tên khoa học Polygonatum officinale All hay polygonatum odoratum [Mill.] Druce, thuộc họ hành tỏi (Liliaceae); lá giống lá trúc, thân rễ bóng nhẵn trông như ngọc nên có tên là ngọc trúc">ngọc trúc. Bộ phận dùng làm Thuốc là thân rễ. Rễ có mắt đều nhau, hình giống mắt tre với tên dược là Rhizona polygonati odorati.

Lưu ý không nhầm với củ hoàng tinh to hơn và ngứa, có nhiều đốt không đều nhau.

Theo Đông y ngọc trúc có vị ngọt, tính bình, quy vào các kinh phế và vị. Có công năng dưỡng âm, nhuận táo, sinh tân, chỉ khát, bổ khí huyết, trừ phong thấp. Chủ trị trúng phong nhiệt, ho suyễn, phiền khát, hư lao, phát nóng ở tiêu hóa.

Liều trung bình mỗi ngày từ 6 - 12g hoặc có thể tới 10 - 15g cho dạng Thuốc sắc, hoàn tán hay nấu cao. Khi dùng tươi hoặc độc vị liều có thể tới 40 - 80g/ngày, dùng trong cường tim cần liều cao hơn. Lưu ý khi có đờm tích ứ thì không dùng.

Để tham khảo và áp dụng, dưới đây xin giới thiệu một vài phương trị liệu tiêu biểu từ ngọc trúc.

Trị bệnh mạch vành đau thắt ngực: (phối hợp với đảng sâm chế thành phương) cao sâm trúc: gồm: đảng sâm 12g, ngọc trúc 20g, sắc đặc thành cao, chia 2 lần uống trong ngày.

Trị chứng ngoại cảm: (biểu hiện chứng ho, phế táo ở người bệnh vốn âm hư). Dùng phương Gia giảm ngọc trúc thang (trong Thông tục thương hàn luận) gồm ngọc trúc 12g, hành tươi 3 củ, cát cánh 2g, đạm đậu xị 16g, bạc hà 4g cho sau để khỏi mất tinh dầu, chích cam thảo 2g, bạch vi 4g, táo tàu 2 quả, sắc uống ngày 1 thang chia 2 - 3 lần trong ngày.

Trị viêm phế quản mạn: ngọc trúc 12g, mạch môn đông 16g, sa sâm 12g, thạch hộc 12g, sắc uống ngày 1 thang, chia 2 - 3 lần trong ngày.

BS. Hoàng Xuân Đại

Mạng Y Tế
Nguồn: Nguồn Internet (news-ngoc-truc-vi-thuoc-cuong-tim-19467.html)

Tin cùng nội dung

  • Tết đến, các gia đình thường mua hoa để trưng bày trong nhà. Tuy nhiên, ít ai biết được rằng, bên cạnh vẻ đẹp, các loại hoa Tết như đào, hoa hồng, cúc vạn thọ, hoa mào gà… còn là những vị Thuốc quý.
  • Theo quan niệm của y học cổ truyền, bệnh mạch vành thuộc các chứng “tâm thống” (đau tim), “hung tê” (đau ngực).
  • Các loại rau thơm không chỉ làm cho các món ăn thêm hấp dẫn, mà còn góp phần không nhỏ trong việc phòng và chữa bệnh.
  • Đan sâm cải thiện tuần hoàn mạch vành, giảm đau thắt ngực, ngăn ngừa xơ vữa, tiêu cục máu đông – vị Thuốc không thể thiếu trong Đông y để trị bệnh tim mạch
  • Khi bị đầy bụng, khó tiêu, ngoài việc nên tránh những thức ăn khó tiêu như dầu, mỡ động vật, và nên ăn các loại thức ăn dễ tiêu, nấu mềm, chúng ta có thể dùng các vị Thuốc có tác dụng kích thích tiêu hóa là những quả, cây, lá có sẵn trong vườn nhà, vừa không tốn kém lại không gây hại cho cơ thể.
  • Cây qua lâu (trichosanthes kirilowi maxim.) thuộc họ bí (cucurbitaceae), có tên khác là dưa trời, dưa núi, hoa bát, vương qua (tên gọi ở miền Bắc, dây bạc bát, bát bát châu (tên miền Nam), người Tày gọi là thau ca.
  • Các dược liệu này sau khi ngâm tẩm bằng rượu, có thể sử dụng độc vị, hoặc phối hợp với các vị Thuốc hình thành bài Thuốc ngâm rượu, hoặc sắc uống có tác dụng bồi bổ cơ thể sau khi suy nhược về khí huyết, ngũ tạng hư suy, giúp cân bằng âm dương phòng và chữa bệnh rất tốt, hiệu quả góp phần cải thiện sức khỏe.
  • Theo Đông y, gừng khô vị cay, tính ôn; vào các kinh tâm, tỳ, phế và vị. Có tác dụng ôn trung tán hàn, hồi dương thông mạch.
  • Nhót được trồng ở khắp các vùng miền trong cả nước. Lá nhót chứa tanin, saponosid, polyphenol. Quả nhót chứa rất nhiều chất dinh dưỡng, được dùng để nấu canh chua, vị thơm; quả nhót xanh, thái ngang dày 3 - 5mm, phơi hoặc sấy khô để làm Thuốc.
  • Hoa hòe là hòe mễ, mễ là hạt gạo, ý nói vị Thuốc từ hoa hòe, có kích thước chỉ bằng hạt gạo, nghĩa là còn ở dạng nụ hoa, mới được dùng làm Thuốc.
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY