Chấn thương chỉnh hình hàm mặt hôm nay

Đây là chuyên khoa đảm nhận các ca phẫu thuật, tạo hình vùng răng hàm mặt thông thường; cùng với việc điều trị gãy xương vùng hàm mặt, phẫu thuật chỉnh hình sửa chữa các biến dạng, chấn thương vùng hàm mặt do tai nạn giao thông, tai nạn sinh hoạt và lao động thường nhật. Chuyên khoa này còn bao gồm tạo hình khớp thái dương hàm trong các trường hợp dính khớp, đồng thời nghiên cứu, kết hợp các kỹ thuật vi phẫu thuật và cấy ghép mới. Những tình trạng bệnh thường gặp của khoa Chấn thương chỉnh hình hàm mặt như: gãy xương vùng hàm mặt, dính khớp, lệch lạc xương mặt hàm; u lành tính/ác tính vùng hàm mặt, nang và u xương hàm, dị tật bẩm sinh vùng hàm mặt; răng ngầm, hở môi - vòm miệng,...

Răng và bộ răng: dấu hiệu triệu chứng, nguyên nhân, chẩn đoán điều trị răng hàm mặt

Tủy có 2 nhiệm vụ: tạo ngà và tiếp nhận cảm giác nhờ các dây thần kinh với các đầu tận cùng ở sát vách tủy hoặc chui vào các ống ngà.

Các khái niệm cơ bản

Hệ thống nhai

Bao gồm răng, nha chu, xương hàm, khớp thái dương hàm, các cơ nhai, các dây thần kinh, mạch máu, hệ thống tuyến nước miếng, hệ thống môi - má - lưỡi.

Cơ quan răng

Là một đơn vị cấu tạo và chức năng của bộ răng, bao gồm răng và nha chu:

Răng là bộ phận chính, trực tiếp nhai nghiền thức ăn.

Nha chu là bộ phận nâng đỡ và giữ răng tại chỗ, trực tiếp chịu ảnh hưởng của lực nhai.

Bộ răng là sự sắp xếp có tổ chức của các cơ quan răng.

Cấu trúc sinh học mô răng

Mô răng bao gồm mô cứng (men, ngà) và mô mềm (tủy).

Men răng

Là một mô calci hóa cao độ.

Thành phần gồm (tính theo khối lượng):

95% vô cơ (Calci, Phospho, Magnésium, CO3, Na, F, Ca-P).

1% hữu cơ (Protein và Lipid).

4% nước.

Men răng được hình thành và định hình từ trước khi răng mọc.

Sau khi răng mọc (trong khoảng từ 2 đến 3 năm ) trong đời sống men răng diễn ra quá trình trưởng thành, chủ yếu là quá trình hình thành các phức chất do trao đổi chất với môi trường nước miếng làm cho các tinh thể (Hydroxyapatit và Fluoroapatit) là những đơn vị cấu tạo nên các trụ men, có sự thay đổi so với men răng hình thành khi chưa mọc hay mọc.

Phản ứng của men răng trong đời sống của răng mang đậm những đặc trưng của một vật liệu calci hóa cao độ.

Ngà răng

Cũng là một mô calci hóa cao độ nhưng ít hơn men răng.

Thành phần gồm 70% chất vô cơ, 20% chất hữu cơ và 10% là nước.

Trong ngà có nhiều ống nhỏ chứa các đuôi nguyên sinh chất của các tạo ngà bào, ống ngà có đường kính khoảng 5-10 ìm (1ìm = 10 –6 m, 1nm = 10 –9 m).

Trên 1mm2 cắt ngang qua ngà răng có khoảng từ 20.000 đến 50.000 ống ngà, ngà răng như vậy là một mô tương đối xốp và đàn hồi.

Tủy răng

Là một mô liên kết đặc biệt giàu mạch máu và thần kinh.

Có một loại tế bào đặc biệt là các tạo ngà bào xếp thành một hàng ở sát vách tủy.

Các tạo ngà bào liên tục tạo ra ngà (ngà thứ phát) làm cho hốc tủy ngày càng hẹp lại.

Tủy có 2 nhiệm vụ: tạo ngà và tiếp nhận cảm giác nhờ các dây thần kinh với các đầu tận cùng ở sát vách tủy hoặc chui vào các ống ngà.

Cảm giác của răng qua hệ thống tủy là rất đặc biệt vì:

Không đặc hiệu về vị trí.

Không đặc hiệu về nguyên nhân gây ra cảm giác.

Do ở trong buồng kín và do cấu trúc của hệ mạch máu, tủy răng vừa dễ bị viêm vừa dễ bị hoại tử vì phản ứng viêm đó.

Khi viêm gây đau nhức dữ dội.

Cấu trúc sinh học mô nha chu

Mô nha chu bao gồm xê măng, dây chằng nha chu, nướu răng và xương ổ răng.

Xê măng chân răng

Là một mô dạng xương đặc biệt (có 61% là chất vô cơ, 27% chất hữu cơ rất giàu các sợi collagen, còn 12% là nước) bám chặt vào ngà chân răng và thường bị lấy ra cùng với răng khi nhổ.

Xêmăng được tạo ra trong suốt cuộc đời (nhờ sự hoạt động thường xuyên của nguyên bào tạo xê măng- cementoblast) đặc biệt là ở phía chóp răng làm cho các răng liên tục mọc lên để bù đắp cho sự mòn ở mặt nhai .

Dây chằng nha chu

Là một mô liên kết giàu nguyên bào và tế baò sợi với nhiều mạch máu và thần kinh.

Là những sợi liên kết đặc biệt nối từ cément đến xương ổ răng.

Dây chằng có độ dầy khoảng ¼ mm.

Chức năng :

Giảm chấn động (R bình thường có độ lung lay nhất định).

Truyền lực nhai xuống xương ổ răng.

Nuôi lớp xê măng và xương ổ răng.

Tạo cảm giác định vị và xúc giác.

Nướu răng

Niêm mạc nướu liên tục với niêm mạc miệng.

Gồm nướu dính (là nướu bám vào mặt ngoài của xương ổ răng) và nướu rời.

Ở mặt thân răng của nướu rời có một vùng biểu mô đặc biệt gọi là biểu mô bám dính, đó là nơi biểu mô nướu bám dính vào men răng.

Biểu mô nướu được kératin hóa ở mặt ngoài, không keratin hóa ở mặt trong.

Xương ổ răng

Là một phần của xương hàm trên hoặc dưới, làm chỗ tựa cho răng.

Là một mô xương xốp liên tục với xương hàm và tạo thành những huyệt giống với hình thể và số lượng của các chân răng.

Có một vách xương mỏng và cứng bao xung quanh chân răng và là nơi để các dây chằng nha chu bám vào (phiến cứng-lamina dura).

Nếu răng bị nhổ xương ổ răng sẽ bị tiêu dần.

Trong đời sống thì răng cần cho thì đầu tiên để cắt và nghiền cơ học thức ăn, nhưng răng miệng và hệ thống nhai ở người nói chung không góp phần quyết định cho sự sống còn nhưng vẫn là bộ phận trước tiên tiên của cơ thể tiếp xúc, giao tiếp với thế giới bên ngoài, giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với với những người khác trong cộng đồng (chức năng xã hội).

Giữ gìn sự lành mạnh và thoải mái của hệ thống nhai là mục tiêu của người thầy Thu*c cũng đồng thời là đòi hỏi của mỗi cá nhân và của cộng đồng.

Nguồn: Internet.
Mạng Y Tế
Nguồn: Điều trị (https://www.dieutri.vn/bgranghammat/bai-giang-rang-va-bo-rang/)

Chủ đề liên quan:

bài giảng răng và bộ răng

Tin cùng nội dung

    Dữ liệu đang được cập nhật, vui lòng quay lại sau!
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY