Vôi hóa thường do canxi có trong nước bọt lắng đọng quanh khối viêm, lâu dần tạo thành sỏi. Viên sỏi này nằm chắn ngay tuyến nước bọt. Khi người bệnh nhai, tuyến bị kích thích và sưng phồng. Sau khi ăn, do nước bọt tiết ra miệng từ từ, tuyến sẽ xẹp xuống. Chính vì vậy, nhiều bệnh nhân chủ quan cho rằng bệnh đã tự hết hoặc không nguy hiểm. Đến khi viên sỏi quá lớn, bít cả tuyến nước bọt, gây sưng phồng và đau nhiều bệnh nhân mới chịu đến thầy Thu*c.
Sỏi là hiện tượng tồn tại calci trong lòng ống của gây hiện tượng tắc bán phần hoặc hoàn toàn đường dẫn của vào miệng. Sỏi thường nằm ở những lớn như mang tai, tuyến dưới hàm, dưới lưỡi, đa phần các trường hợp này gồm rất nhiều sỏi. Độ lớn của viên sỏi rất khác nhau từ đầu tăm đến quả trứng gà...
Người ta cho rằng hiện tượng sỏi được hình thành do rối loạn chuyển hóa của các thành phần trong dịch trong đấy có calci. Chính vì thế dẫn đến việc tăng độ nhớt của dịch tuyến, tăng lắng đọng canxi trong lòng ống tuyến tạo sỏi. Một số yếu tố nguy cơ được liệt kê bao gồm mất nước, chế độ ăn nghèo chất dinh dưỡng, dùng một số Thu*c như kháng histamin, các Thu*c điều trị tâm thần, Thu*c điều trị huyết áp, bệnh lý túi mật, chấn thương tuyến nước bọt. Nguy cơ tạo sỏi cũng cao hơn ở những người bị viêm hoặc hút nhiều Thu*c lá.
Tổ chức phân bố rộng rãi. Phần lớn các tuyến đều rất nhỏ, chỉ có 3 nhóm lớn là tuyến mang tai, tuyến dưới hàm và tuyến dưới lưỡi. Sỏi có thể hình thành trong các ống dẫn lớn của 3 tuyến này, đôi khi xuất hiện ở nhiều nơi và có tính chất ở cả hai bên. Tuy nhiên, sỏi thường xuất hiện ở tuyến dưới hàm (80%) và tuyến mang tai. Hầu như không có sỏi ở các phụ. Một số sỏi hình thành trên cơ sở dị vật hoặc vi khuẩn, do viêm nhưng nhiều khi không xác định được nguyên nhân.
Khi các ống dẫn của tuyến dưới hàm, dưới lưỡi tắc nghẽn sẽ làm cho nền miệng cứng, thăm khám dễ nhầm với ung thư. Để chẩn đoán xác định sỏi tuyến nước bọt, chiếu X-quang thấy khối mờ và chụp ống dẫn có thể phát hiện ống dẫn bị tắc nghẽn hoàn toàn hoặc một phần.
Sỏi tuyến nước bọt hay gặp ở lứa tuổi trưởng thành, rất ít gặp ở trẻ em, nam nhiều hơn nữ. Bệnh rất dễ phát hiện nhưng lại dễ bị bệnh nhân bỏ qua.Do dòng chảy nước bọt bị tắc nên bệnh nhân sỏi có thể có các triệu chứng như: Đau, có cảm giác như bị đè nén tại tuyến và ống dẫn, đôi khi đau dữ dội, nhất là khi ăn; vùng tuyến tắc bị sưng; viêm, phù nề quanh vùng ống dẫn; xoa bóp nhẹ tuyến không thấy nước bọt tiết và đôi khi sờ thấy sỏi. Trường hợp bội nhiễm vi khuẩn có thể kèm theo sốt, nổi hạch ở góc hàm và có thể có mủ. Tổ chức viêm có thể tạo thành ổ áp xe, gây tổn thương dây thần kinh chi phối hoạt động của các cơ mặt, gây liệt mặt.
Tuy nhiên, biểu hiện lâm sàng của sỏi tùy thuộc chủ yếu vào vị trí của viên sỏi trong tuyến. Nếu sỏi ở trong ống tuyến biểu hiện lâm sàng rõ hơn sỏi trong nhu mô tuyến. Lúc đầu sỏi dưới hàm có thể trầm lặng trong thời gian khá lâu. Dần dần, nó biểu lộ bằng những triệu chứng tắc nước bọt và nhiễm khuẩn.
Nó là một tai biến cơ học, do sỏi di chuyển trong tuyến gây ra với những co thắt của thành ống đẩy sỏi đi. Các nhà nghiên cứu mô tả rằng, giữa bữa ăn, bệnh nhân thấy đau chói ở luỡi và sàn miệng. Đồng thời thấy phồng khá to và rất nhanh vùng trên xương móng, đẩy cao niêm mạc dưới lưỡi. Đau dịu dần và hết khi tống được một tia ra khỏi lỗ ống. Sưng bớt dần, đôi khi mấy giờ sau mới hết hẳn.
Thường tuyến dưới hàm cũng sưng phồng to và cả lỗ ống Wharton nề, đỏ. Những cơn đau có thể kế tiếp nhau và có khi tự tống ra được qua lỗ ống một vài viên sỏi nhỏ. Khám lúc này, chỉ thấy sàn miệng cương nề, lỗ ống nề đỏ. Sờ dọc ống Wharton đôi khi thấy sỏi cứng thường lẫn trong niêm mạc bị sưng, cương nề, cứng, đau. May nhất là sỏi tự tống ra được hoặc phẫu thuật lấy sỏi ra, thì các triệu chứng kể trên sẽ hết. Không để lại di chứng. Nếu không sẽ xảy ra những hiện tượng nhiễm khuẩn nặng hơn như:
Viêm tấy vùng sàn miệng: Bệnh nhân đau dữ dội cả vùng sàn miệng, lan lên tai, không ăn, nuốt, nói được. Đau suốt ngày đêm làm bệnh nhân không ngủ được. Há miệng hạn chế, chỉ bớt khi mủ thoát ra được qua lỗ ống. Bệnh nhân khạc nhổ luôn miệng, đôi khi lẫn cả mủ. Sốt nhẹ hoặc nặng, sức khỏe bị ảnh hưởng vì đau và hạn chế ăn uống. Diễn biến có thể tốt, bệnh bớt dần sau khi mủ thoát ra được cùng với sỏi, và trở thành tình trạng mạn tính. Hiếm hơn, viêm nhiễm lan tỏa cả vùng sàn miệng, tiên lượng nặng nề hơn.
Viêm tuyến dưới hàm: Viêm tuyến dưới hàm xảy ra thường do quá trình viêm nhiễm liên tiếp của ống Wharton, hoặc hiếm hơn, do sỏi trong tuyến gây ra.
Đột nhiên, bệnh nhân thấy đau dữ dội vùng dưới hàm, có thể lan lên tai, nuốt thấy vướng, đau, có sốt nhẹ, tuyến dưới hàm gồ, sưng đau. Vùng sàn miệng cương đỏ, nề, sưng đau như tả ở trên.
Với kháng sinh, triệu chứng bớt dần, diễn biến tới viêm mạn tính, để lại tuyến xơ cứng, to, gồ ghề. Hoặc hiếm hơn viêm lan mạnh, da nóng đỏ, đau, tiến tới mưng mủ, vỡ mủ để lại lỗ rò ngoài da.
Phẫu thuật lấy sỏi tuyến nước bọt.
Điều chủ yếu và trước tiên là phải làm vệ sinh răng miệng tốt và dùng kháng sinh nếu có nhiễm khuẩn. Đối với sỏi nhỏ, chỉ cần gây kích thích lưu lượng nước bọt bằng cách ngậm chanh hoặc kẹo chua có thể giúp các viên sỏi vượt qua một cách dễ dàng. Trường hợp khác, bác sĩ có thể massage hoặc đẩy viên sỏi ra khỏi tuyến nước bọt. Đối với sỏi có kích thước lớn, việc lấy sỏi sẽ gặp nhiều khó khăn. Bác sĩ thường rạch một đường nhỏ trong miệng để loại bỏ sỏi.
Trường hợp sỏi phức tạp, các bác sĩ hiện đang áp dụng một kỹ thuật mới và ít xâm lấn là nội soi để loại bỏ sỏi. Đối với những người bị sỏi tái phát hoặc đã bị thiệt hại không thể phục hồi, phẫu thuật cắt bỏ tuyến giáp là cần thiết. Nhưng với những công trình nghiên cứu gần đây, những được gán cho vai trò lưỡng diện, không những chỉ tiết nước bọt cần thiết cho ăn, nuốt nhai, tiêu hóa mà còn có chức năng nội tiết, gần như của tuyến tuỵ, tuy rằng ít quan trọng hơn. Do đó một số tác giả khuyên nên cố gắng tránh phẫu thuật cắt bỏ tuyến.
Vì vậy, khi có các dấu hiệu và triệu chứng trên thì cần đi khám ngay. Các bác sĩ chuyên khoa sẽ khám khoang miệng và chỉ định chụp X-quang nếu nghi ngờ có bệnh.
TS.BS .Lê Đức Tuân