Trong thời đại hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật, các ngành hóa học, dược học cũng phát triển không ngừng và đã cho ra đời nhiều sản phẩm hóa, dược học được sử dụng rộng rãi trong cuộc sống, trong nông nghiệp cũng như trong y học.
Nếu sử dụng đúng nguyên tắc, phương pháp, hàm lượng, liều lượng... thì có hiệu quả rõ rệt. Ngược lại nếu sử dụng một cách bừa bãi, không có sự quản lý chặt chẽ sẽ gây tác hại nghiêm trọng cho cơ thể con người cũng như môi trường sống.
Trong cuộc sống hàng ngày xung quanh chúng ta có rất nhiều những chất gây độc, từ cây cỏ tự nhiên đến các sản phẩm hóa học, hóa dược, nên người ta thường dễ kiếm, dễ sử dụng và tình trạng trúng độc ngày càng tăng.
Là các loại chất độc thường ở dạng nguyên tố hoặc các sản phẩm được sử dụng trong công nghiệp như: Arsenic, chì, thủy ngân, phosphor... có đặc tính là không, hoặc rất ít bị quá trình hư thối làm phân hủy. Vì vậy khi nạn nhân bị ch*t do trúng độc loại này nó tồn tại rất lâu trong các bộ phận của cơ thể.
Thường gặp ở các dạng tự nhiên, trong cây cỏ như: Cà độc dược, tam thất, lá ngón... các chế phẩm dùng trong y tế như: Morphin, barbituric... hoặc các sản phẩm dùng trong nông nghiệp như: DDT (Dichloro-Diphenyl-Trichloroethane), 666 (Hexachlorane), Wolfatox... Ðặc tính của các loại độc chất hữu cơ là bị thời gian và quá trình hư thối làm phân hủy.
Ngộ độc thức ăn là hiện tượng gây nên bởi chất độc có sẵn trong thức ăn hoặc do quá trình phân hủy thức ăn, cũng như sự bội nhiễm của vi trùng. Ðặc tính của ngộ độc loại này thường mang tính chất hàng loạt. Mức độ ngộ độc nặng, nhẹ phụ thuộc vào chất độc, cơ địa và số lượng thức ăn đưa vào cơ thể. Có rất nhiều loại nguyên nhân gây nên nhưng người ta chia ra 3 nhóm chính:
Là bản thân các loại thức ăn đó có chất độc nhưng không được chế biến hoặc khi ăn mà không xác định được như:
Nấm độc: Loại nấm ăn được rõ ràng như nấm hương (mọc ở gỗ thông mục), Nấm rơm (mọc ở rơm rạ) hoặc mộc nhĩ (mọc ở những cây mục ẩm khác). Tuy nhiên có loại nấm độc có hình thù như trên nên người ta nhầm lẫn như nấm sáng trăng (chứa phosphor) hoặc có loại nấm ăn nhiều sẽ gây độc...
Mật ong: Là loại saccharose chứa nhiều sinh tố và được sử dụng khá rộng rãi. Tuy nhiên nếu mật ong lấy tinh chất (lim, bạch đàn...) và trong đó có một số loại độc chất chưa phân lập được nếu ăn nhiều sẽ gây độc (say mật).
Là bản thân các loại thức ăn đó không có chất độc nhưng trong quá trình bảo quản không tốt sẽ biến thành một số chất gây độc cho cơ thể như : Sự lên men vi khuẩn của protein phát sinh một số chất độc như histamine, esther de choline, dimethyl, guanidine gây nên triệu chứng ở dạ dày, gây dị ứng (allergie) hoặc nổi mày đay (urticaire), nhức đầu, hạ huyết áp.
Các loại thức ăn mang tính acid như khế, sấu, dấm trong nồi đồng và để lâu tạo điều kiện tác dụng lên đồng phân hủy thành muối đồng (CuSO4) gây độc.
Các loại rau xanh được phun Thu*c trừ sâu: DDT, 666... mà rửa không kỹ đây là nguyên nhân thường gặp khi thời tiết hạn, nóng.
Ðây là loại ngộ độc thường gặp và rất nguy hiểm vì gây rối loạn tiêu hóa nặng, nhiễm độc, nhiễm trùng. Có nhiều loại vi trùng gây nên nhưng trên lâm sàng người ta chia làm hai thể :
Thể tiêu hóa: Xuất hiện sớm sau bữa ăn với biểu hiện đau bụng, nôn mửa, ỉa lỏng, nhức đầu, mệt mỏi, sau vài ngày sẽ khỏi, nếu nặng có thể Tu vong. Ngộ độc này thường do salmonella, staphylocoque, enterocoque...
Thể thần kinh: Thường do độc tố của vi khuẩn yếm khí clostridium botulinum có trong các loại đồ hộp, với các dấu hiệu chính hoa mắt, chóng mặt, nhìn đôi, nhức đầu, giảm thị lực, khó thở , nhịp tim chậm, huyết áp giảm ngoài ra nó còn biểu hiện hội chứng tiêu hóa. Tỷ lệ Tu vong 2 - 10% do sốc.
Ðường hô hấp: Thường gặp do các loại chất độc ở dạng hơi hoặc dễ bay hơi như mặt nạ (mask) gây mê bị hở, phun Thu*c sâu, muỗi đi ngược chiều gió...
Ðường tiêu hóa: Ðây là đường hay gặp nhất, do ăn uống nhầm, tự dùng Thu*c độc hoặc bị bỏ Thu*c độc vào trong thức ăn nước uống.
Ðường máu: Chủ yếu gặp trong T*i n*n liên quan đến con đường tiêm truyền hoặc các chất độc tác dụng trực tiếp lên bề mặt các vết thương.
Ðường da và niêm mạc: Các chất độc tác dụng trực tiếp lên bề mặt da và niêm mạc như Thu*c chữa chấy rận, chữa ghẻ hoặc dùng tay khuấy Thu*c trừ sâu...
Ðầu độc: Là tình trạng trúng độc do bàn tay kẻ khác sắp đặt có ý hãm hại mà nạn nhân không biết thường liên quan tới án mạng.
Tự độc: Là tình trạng trúng độc do chính nạn nhân sử dụng các loại chất độc bằng các con đường khác nhau và con đường thường dùng nhất là đường tiêu hóa. Ðây là các trường hợp tự sát.
Ngộ độc: Là tình trạng trúng độc do vô tình nạn nhân mắc phải trong cuộc sống sinh hoạt, trong lao động sản xuất... Ngộ độc thường gặp phải ở liều lượng lớn và thường là do T*i n*n.
Nhiễm độc: Là tình trạng trúng độc với liều lượng nhỏ, thường xảy ra đối với những người có nghề nghiệp liên quan với các chất độc như: Công nhân chế tạo ắc quy (accumulator), dược sĩ bào chế Thu*c, thợ nhuộm có arsenic...
Wolfatox có tên là Methil parathion (P6O5) hay Parathion, thuộc nhóm các hợp chất hữu cơ của phosphor (esther phosphoric) ở dạng bột đã pha lẫn với dầu hỏa, có tính chất gây độc rất cao. Nó được sử dụng để diệt sâu trong trồng trọt và có khi dùng để diệt ruồi, chuột.
Wolfatox vào cơ thể bằng nhiều con đường khác nhau với liều gây Tu vong là 50mg. Ðường tiêu hóa là hay gặp nhất trong T*i n*n rủi ro như ăn uống nhầm, dùng thực phẩm mới phun Thu*c trừ sâu mà không rửa sạch. Tự sát khá phổ biến và đầu độc rất ít gặp. Ðường da, niêm mạc và hô hấp cũng có thể gặp trong T*i n*n khi pha Thu*c, phun Thu*c, phát Thu*c hoặc dùng Thu*c để trị ghẻ, mụn nhọt hoặc chấy rận...
Trong cơ thể parathion phân hủy thành paranitrophenyl thải trừ chậm qua thận nên tình trạng nhiễm độc rất nguy hại cho nạn nhân bởi phosphoric hữu cơ ức chế men cholinesterase ở huyết thanh và tổ chức làm cho acetylcholine tích lũy ở một số phủ tạng, thần kinh trung ương (trong các synapse thần kinh), thực thể Nicotine và Muscarine vì vậy trên lâm sàng biểu hiện 3 hội chứng chính :
Hội chứng Nicotine: Gặp trong ngộ độc nặng, yếu cơ, liệt cơ, liệt hô hấp, rối loạn nhịp tim, ngừng tim.
Thể tối cấp: Khoảng 30 phút sau khi trúng độc nạn nhân ngây ngất, đi vào hôn mê sâu, thân nhiệt giảm và ngừng thở.
Thể cấp: Ðau bụng, nôn mửa, đi lỏng, tăng tiết mồ hôi, nước bọt, đồng tử co, cơ rung, rối loạn co thắt, khó thở, trụy mạch. Nếu không cứu chữa chắc chắn nạn nhân sẽ ch*t, nếu được điều trị các triệu chứng nhiễm độc giảm dần và qua khỏi.
Dấu hiệu bên ngoài thường không điển hình, cần chú ý mô tả tư thế nạn nhân, xem xét tỉ mỉ các vết tích bên ngoài để xác định tự sát hay đầu độc.
Dạ dày, tá tràng, ruột có thể có Thu*c đọng xanh nhờn mùi hăng khó chịu (Thu*c đọng váng như dầu mỡ). Tùy theo mức độ có thể thấy các ổ bầm máu, chảy máu nhỏ trong hoặc dưới niêm mạc, lóet hoặc hoại tử hoặc phù dày niêm mạc.
Thạch tín (nhân ngôn) là chất độc bảng A và là hợp chất của arsenic (As2O3). Arsenic không độc nhưng những hợp chất của nó có oxygen như acid arsenieux, acid arsenic và các muối của nó thì rất độc. Thạch tín (acid arsenieux) có màu trắng ở dạng bột tinh thể, không mùi, khó tan trong nước lạnh, tan trong cồn, kiềm. Thạch tín là chất độc nhất trong hợp chất arsenic. Nhân ngôn là sulfure của arsenic có màu vàng, thực chất nó không độc nhưng trong nhân ngôn có một hàm lượng thạch tín vì vậy nó trở nên độc.
Thạch tín có ở trong đất, trong nước, trong các mỏ dưới dạng sulfate arsenieux. Thực vật trong quá trình phát triển nó hấp thu một lượng thạch tín ở trong đất, trong nước. Trong cơ thể người có chứa một hàm lượng thạch tín nhỏ 0,01mg, nhưng có thể tăng lên rất cao 0,258mg ở những người thường xuyên tiếp xúc với thạch tín như: Công nhân khai thác và chế biến quặng arsenic, công nhân nhà máy chế biến phẩm nhuộm, thợ nhuộm, công nhân tẩy bông, dược sĩ bào chế Thu*c...
Ðường vào cơ thể phổ biến nhất là đường tiêu hóa do ăn uống nhầm, tự sát hoặc đưa thạch tín vào thức ăn, nước uống để đầu độc. Tiếp theo là đường niêm mạc người ta dùng hợp chất của arsenic để thụt rửa trực tràng hoặc dùng mỡ đặt *m đ*o để điều trị giang mai. Ðường máu hiện nay rất ít gặp, trước đây người ta dùng các hợp chất của arsenic như arsenobenzol (606), novarsenobenzol (914) tiêm vào mạch máu để chữa giang mai nên gây độc rất nhiều. Nếu dùng các chế phẩm của thạch tín để điều trị nó tồn tại trong cơ thể 20-30 ngày.
Xuất hiện từ 30 - 60 phút sau khi dùng Thu*c với triệu chứng nổi bật là rối loạn tiêu hóa nặng: Ðau bụng, nôn mửa chất trắng nhầy, ỉa chảy như đi tả phân có lẫm máu, miệng khô và nóng, khát nước, đau thực quản, chuột rút, chân tay lạnh, trụy mạch, hôn mê và tử vong trong vòng 24 giờ.
Nạn nhân thường có các biểu hiện: Kém ăn, mệt mỏi, đau bụng, viêm da, viêm dây thần kinh, đau mỏi các cơ bắp, co duỗi chân tay khó khăn.
Trúng độc thạch tín thường khó chữa, trong quá trình cấp cứu có thể tạm ổn định vài ngày, sau đó nổi ban, rối loạn tim mạch trầm trọng và Tu vong, nếu qua khỏi thời gian phục hồi thường kéo dài.
Trong tình trạng cấp thấy dấu hiệu mất nước rõ: Da nhăn nhất là ở bàn tay, bàn chân, mắt lõm, bụng xẹp.
Miệng, cổ họng, thực quản không có dấu hiệu gì đáng kể. Dạ dày, ruột bị viêm loét, có trường hợp chỉ phù nề, màu đỏ, mất nếp nhăn niêm mạc, niêm mạc có các chấm tụ máu. Niêm mạc ruột phủ một lớp dịch nhầy lẫn các hạt trắng lổm nhổm do tổ chức niêm mạc bị hoại tử và bong ra.
Không có tổn thương đặc hiệu mà chỉ thấy gan thận thoái hóa mỡ, viêm loét niêm mạc dạ dày - ruột, xung huyết hoặc chảy máu.
Thạch tín là chất độc lưu lại khá lâu trong cơ thể mà không bị quá trình hư thối làm phân hủy. Vì vậy sau khi khám nghiệm tử thi cần lấy bệnh phẩm: Chất nôn, gan, thận, ruột, dạ dày cùng dịch, phân, nước tiểu. Trong trường hợp muộn hoặc khai quật tử thi lấy lông, tóc, móng, xương, đất xung quanh quan tài 1 - 3 mét và các mẫu đất khác ở nghĩa trang để tiến hành tìm thạch tín và đối chứng.
Chẩn đoán trúng độc thạch tín dựa trên những dự kiện: Triệu chứng lâm sàng, tổn thương giải phẫu bệnh, kết quả độc chất và chú ý đến đất ở nghĩa trang các loại Thu*c bổ có arsenic nghề nghiệp nạn nhân liên quan đến thạch tín, thực tế tang vật thu được ở hiện trường để phân tích và kết luận.
Ðể bổ sung cho kết quả đại thể và kết luận khám nghiệm y pháp, việc lấy bệnh phẩm để xét nghiệm là cần thiết.
Các mảnh, mẫu phủ tạng và chất độc phải được đựng riêng trong các lọ sạch có miệng rộng và nút kín (dùng lọ thủy tinh màu). Có nhãn ghi rõ mẫu gì, ngày tháng năm thu giữ, chữ ký của cán bộ thu giữ. Bệnh phẩm phải được niêm phong, gắn xi (lọ đựng bệnh phẩm không được cho bất cứ loại hóa chất nào vào kể cả formol và bonin) kèm theo phiếu xét nghiệm ghi đầy đủ yêu cầu phân tích, giao cho cơ quan điều tra.
Các mẫu xét nghiệm này được bảo quản tốt nhất là môi trường lạnh để gửi đi kiểm nghiệm và tuyệt đối không được gửi bằng đường bưu điện.
Ðứng trước những trường hợp khám nghiệm tử thi nghi ngờ bị trúng độc, không đòi hỏi giám định viên xác định được chính xác loại chất độc gì (kết quả này do các chuyên gia kiểm nghiệm độc chất trả lời). Mà chỉ yêu cầu phát hiện và nhận diện một số loại chất độc (vì có rất nhiều loại chất độc), xác định có tình trạng trúng độc hay không, xử lý, thu giữ và bảo quản mẫu bệnh phẩm cho tốt để tiến hành xét nghiệm độc chất.
Nguồn: Internet.