Chấn thương bao gồm mọi tổn thương do các vật bên ngoài tác động vào cơ thể. Hình thái của tổn thương phụ thuộc vào loại vật tác động, trọng lượng, áp lực của vật và vị trí giải phẫu.
Thương tích do các vật gây nên là bằng chứng thực thể mà giám định viên dựa vào để đánh giá mức độ tác hại đối với cơ thể nạn nhân, giúp cơ quan pháp luật định đúng mức án đối với hung thủ.
Mức độ tổn thương của phần mềm phụ thuộc vào vật, lực tác động vì vậy tổn thương ở phần mềm có các mức độ khác nhau.
Tổn thương này có thể thấy ở ngoài da hoặc trong phủ tạng, dưới hình thức vết hoặc mảng xây xát, là tổn thương làm mất một phần biểu bì da, thanh mạc hoặc vỏ bao các phủ tạng. Lúc đầu, vết xây xát đỏ rướm máu hoặc không, có màu hơi sẫm, có vảy khô che phủ, cứng. Qua kính hiển vi
Tổn thương này làm vỡ các mạch máu nhỏ dưới da hoặc trong phủ tạng. Ðặc điểm của vết bầm máu là nơi tổn thương vẫn bằng phẳng, có màu tím nhạt hoặc sẫm. Sự hiện diện của vết bầm máu chứng tỏ thương tích này xảy ra khi còn sống. Tổn thương này cần phân biệt với hoen tử thi hay vết xuất huyết của một số bệnh về máu như bệnh ưa chảy máu (hemophilie), bệnh bạch cầu (leucemie). Dựa vào sự thay đổi màu sắc của vết bầm máu (mảng bầm máu trên 1cm2), ta có thể ước đoán được thời gian xảy ra thương tích:
Tổn thương này làm dập vỡ các mạch máu vừa hoặc lớn, làm máu tràn vào tổ chức, tạo nên các cục máu đông. Ðặc điểm là nơi tổn thương gồ cao lên, màu tím và tổn thương này chỉ xảy ra khi còn sống.
Tổn thương này được tạo nên bởi các loại vật nhọn. Ðặc điểm của tổn thương là hình khe hoặc lỗ thủng với đường hầm tụ máu. Nếu tổn thương ở ngực, bụng thì kèm theo tổn thương ở nội tạng.
Tổn thương này làm mất tính liên tục của tổ chức, tổ chức bị tách rời ra nhưng không mất đi. Ðặc điểm của tổn thương là:
Tổn thương được tạo nên do các vật có diện rộng, trọng lượng lớn, tác dụng mạnh vào cơ thể như dao rựa, rìu, búa... với các đặc điểm của tổn thương là:
Tổn thương này gây nên do lực đè ép biểu hiện rách da, tụ máu. Tụ máu phần mềm dưới da, tổ chức cơ và các phủ tạng. Loại tổn thương này do vật tày gây nên như: giày xéo, vùi lấp, ngã cao...
Khác với tổn thương ở phần mềm, tổn thương ở phần cứng tồn tại được rất lâu và không bị quá trình hư thối xóa mờ dấu vết. Các hình thái tổn thương xương có thể gặp là:
Thường do các vật nhọn tạo nên như: Ðường đạn, mũi giáo, tuốc - ne - vít (tournevis)... Thủng xương ít khi đơn độc mà có kèm theo rạn xương hoặc vỡ xương.
Thường gặp ở các xương dài, là tổn thương làm mất tính liên tục của xương, có thể bị gãy làm hai hoặc nhiều mảnh, tách rời hoặc dính liền nhau.
Là đầu xương bị trật ra khỏi ổ khớp đối với xương dài hoặc các mảnh xương chồng lên nhau đối với xương dẹt.
Tất cả những tổn thương ở phần cứng và phần mềm đều do các vật gây nên. Mỗi loại vật tác dụng trên cơ thể tạo nên những tổn thương có đặc điểm riêng của nó, chính những đặc điểm này giúp cho giám định viên phán đoán được loại hung khí gây nên. Trong Y pháp, người ta phân biệt 3 nhóm vật gây nên thương tích là: Vật tày, vật sắc và vật nhọn.
Trong các loại hung khí, vật tày rất đa dạng như: Nắm tay, khuỷu tay, gót chân, hòn đá, mặt đường, nền nhà, bức tường, gậy... Mỗi loại vật tày có thể gây nên nhiều loại tổn thương khác nhau
Là những vật có lưỡi như: Lưỡi dao lam, dao nhíp, dao phay... hoặc có bản mỏng như: Cật tre nứa, mảnh thủy tinh... tác động bằng cách: Cắt, chém, bổ... Thương tích được hình thành do sự đè ép và lướt đi trên bề mặt cơ thể.
Sự biến dạng của thương tích phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Ðặc điểm của vật sắc, phương thức gây nên và vị trí giải phẫu nơi tổn thương.
Do nạn nhân gây nên: Thương tích thường gặp ở những vùng mà tay nạn nhân dễ dàng tạo ra như: Cổ, ngực, bụng, cổ tay. Ðặc điểm thương tích tự gây nên là nông và nhiều vết chạy song song.
Do nạn nhân tự bảo vệ: Các thương tích này thường gặp ở bàn tay, cẳng tay là do động tác chống đỡ, né tránh hung khí.
Vật nhọn không lưỡi (vật nhọn thông thường): Là những vật chỉ có đầu nhọn như dùi, kim, đinh, đầu đạn...
Có hình khe: Với vật nhọn 1 lưỡi thì có một đầu tù và một đầu nhọn, đầu tù nhiều hay ít là do sống dao dày hay mỏng. Với vật nhọn 2 lưỡi thì hai đầu vết thương đều nhọn.
Rãnh xuyên có thể có cả lỗ ra. Thông thường, rãnh xuyên có chiều dài ngắn hơn chiều dài của vật gây thương tích, nhưng cũng có trường hợp chiều dài của rãnh xuyên dài hơn vật gây thương tích, gặp khi hung thủ đâm mạnh và dao có chắn, trường hợp này thường có ấn của chắn dao.
Chiều dài của miệng lỗ vào phụ thuộc vào góc đâm của hung khí so với bề mặt da. Nếu đâm thẳng góc, kích thước của vết đâm bằng kích thước của hung khí. Nếu đâm chéo góc thì kích thước của vết thương lớn hơn kích thước của hung khí (bản dao).
Bao giờ cũng rửa sạch vết thương để đánh giá, phân loại tổn thương nhưng không làm biến dạng thương tích.
Nguyên tắc chung: Tất cả các thương tích, dù nặng hay nhẹ, xảy ra ở một cơ thể sống đều có bầm máu và có sự co kéo tổ chức.
Nếu bầm máu, tổ chức rửa không mất màu, đó là tổn thương trước ch*t và ngược lại là tổn thương sau ch*t. Ðây là dấu hiệu quan trọng nhất để phân biệt vết thương xảy ra khi còn sống hay khi đã ch*t. Mảnh tổ chức học của tổn thương bầm máu sẽ có hồng cầu trong tổ chức đệm.
Thường rõ nhất là vết thương do vật sắc. Vết thương do vật sắc ở người sống bao giờ cũng hở miệng do các sợi chun dưới da sau khi bị đứt co lại tạo nên hình ảnh này, còn đối với những miệng vết thương gây ra sau khi ch*t, bao giờ cũng gần như khép kín, bởi các sợi chun đã mất tính đàn hồi.
Nhuộm các sợi chun của tổ chức dưới da ở vết thương bằng orcéine, nếu các sợi chun co lại thì thương tích xảy ra trước ch*t nếu sợi chun giãn thẳng là thương tích xảy ra sau khi ch*t.
Hoen tử thi bao giờ cũng nằm ở phần thấp của cơ thể, rạch da tại nơi đó và rửa ngay sẽ bị mất màu đối với vết hoen sớm và nhạt màu đối với vết hoen muộn. Bầm máu có thể xảy ra ở bất cứ vị trí nào trên cơ thể, và khi rạch tổ chức rửa nước sẽ không bị nhạt hoặc mất màu. Mảnh tổ chức học của vết hoen không thấy hồng cầu trong tổ chức đệm.
Ðây là vấn đề rất khó khăn, đòi hỏi phải kết hợp nhiều yếu tố mới có thể phân biệt được và có thể dựa vào những yếu tố sau:
Các vết thương do súc vật, côn trùng ăn thường không có hình thù nhất định và thường gặp ở tổ chức nông. Quan sát kỹ có thể thấy vết cào, xé, rỉa và điều đặc biệt là tổn thương không bao giờ bầm máu.
Nguyên tắc là phải bóc sạch màng xương, gõ từng vùng để so sánh âm thanh, rọi qua ánh sáng để kiểm tra tổn thương rạn xương, đối với những xương cũ, cần phải cưa xương để xem có dấu hiệu bầm máu tủy xương không.
Xác định xem đó có phải là vết máu hay không, phân biệt máu người và máu súc vật, phân loại nhóm máu... Tuy nhiên đây là lĩnh vực chuyên khoa sâu.
Nguồn: Internet.