Cây mọc vào tháng 3, tháng 4 thu hoạch vào tháng 9, tháng 10, mọc hoang ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Ở Việt Nam các vùng đồng bằng, miền núi đều có. Cây cao 0,6-1m cũng có khi cao tới 3m, thân mọc thẳng không có cành, hoặc rất ít cành, lá có nhiều dạng, lá dài không có cuống hình răng cưa. Khi bấm vào lá hoặc thân tiết ra nhũ dịch màu trắng đục như sữa.
Bộ phận dùng làm Thuốc là lá. Lá đang bánh tẻ là loại tốt, hoặc khi cây vừa ra hoa. Sau khi thu hoạch thái thành từng đoạn, phơi khô dùng làm Thuốc. Lá có vị ngọt, đắng, tính hàn, vào các kinh: tỳ, vị, thận, đại tràng, tiểu tràng, bàng quang, can đởm. Có tác dụng: Thanh nhiệt, giải độc, trị chứng ủng tắc, tán nhiệt kết, tiêu viêm, điều trị các chứng bệnh như: Phụ nữ tắc tia sữa sưng vú đau, ung nhọt vú, đau ngực do can khí uất, các đinh độc ngoài da. Chứng nhiệt lâm sáp thống (viêm đường tiết niệu do bàng quang nhiệt). Chứng đởm khí uất (viêm tắc túi mật không do sỏi), chứng loa lịch (quai bị), viêm họng, chứng mục xích (đau mắt đỏ), chứng phế ung (áp-xe phổi) chứng viêm loét hang vị dạ dày... Liều dùng: ngày uống 8-30g lá khô. Dùng lá tươi giã nhỏ đắp ngoài trị một số bệnh ngoài da như ung nhọt ở vú của phụ nữ khi mới phát, hậu bối mới phát... Thuốc đã phơi khô để vào thùng, hoặc lọ, hộp đậy kín tránh mốc mọt, thời gian sử dụng trong 3 tháng, quá thời hạn trên dùng kém tác dụng. Khi dùng để chữa bệnh phải phối hợp với các vị Thuốc khác mới có tác dụng.
Bài Thuốc chữa phụ nữ tắc tia sữa, vú sưng đau: 120g, sài đất 80g, thông thảo 12g, quả chộp phơi khô (vương bất lưu hành) 30g, gai bồ kết 20g...
Bài Thuốc điều trị viêm hang vị dạ dày: 30g, hoàng cầm 8g, bạch thược 12g, uất kim 12g, cam thảo 6g... Bệnh nhân đến thầy Thuốc chẩn đoán bệnh mới dùng Thuốc. Không dùng Thuốc theo lời đồn thổi.