Lúc chưa xuất gia, là một luật sư lỗi lạc nên danh tiếng của ngài khắp trong và ngoài nước ai cũng biết. tương truyền khi ngài sinh ra, các con ngựa đều ré lên, nên gọi là mã minh. lại cũng có thuyết nói, mỗi khi ngài thuyết pháp, các con ngựa trong chuồng ở gần đều lặng lẽ lóng nghe, khi thuyết xong chúng lại hý vang, nên gọi ngài là mã minh.
Hành trình xuất gia của bồ tát mã minh đến như một cơ duyên. một hôm ngài đến đền braham tanca, gặp tổ phú na dạ xa, tổ hỏi ngài: “ông làm nghề luật sư, vậy ông nói làm sao cho người nghe không nghe được không?” thấy ngài trầm ngâm suy nghĩ chưa có câu trả lời, tổ bảo: “ông hãy suy nghĩ để trả lời ta, nếu ông suy nghĩ mà hiểu để trả lời ta, ông lên đem chôn nó đi cho rồi.”
Một câu nói đánh cực mạnh vào tâm suy nghĩ của Ngài, làm thân tâm Ngài như mất sự sống và suy nghĩ. Ngài ở trạng thái như vậy rất lâu, rồi như tỉnh ngộ, bỗng ngài chắp tay thưa với Tổ: Kính thưa thầy, nhờ thầy hỏi ép con vào chỗ ch*t, nên thân và tâm vật lý của con đã ch*t hẳn rồi. Tổ Phú Na Dạ Xa hỏi: Ông đã ch*t sao còn biết nói?
Sau khi được Tổ Phú-Na-Dạ-Xa độ cho xuất gia và truyền tâm ấn, Ngài lại nổi tiếng là một nhà thuyết pháp tài tình. Bao nhiêu tà thuyết ngoại đạo đều bị Ngài bẻ dẹp. Chính Ngài là người thắp sáng ngọn đuốc Đại Thừa ở đầu thế kỷ thứ sáu sau Phật Niết bàn. Ngài đi giáo hóa đến nước Hoa Thị nơi đây ngọn đuốc pháp của Ngài càng sáng rực hơn.
Một hôm, có một ông già gầy ốm vào trong hội nghe pháp, bỗng nhiên ngã xuống đất. Ngài bảo chúng: “Đây là việc phi thường, sẽ có tướng lạ.” Ông già kia liền biến mất. Chợt thấy dưới đất vọt lên một người con gái nhan sắc đẹp đẽ thân như màu vàng, dùng tay chỉ Ngài nói kệ: Khể thủ trưởng lão tôn/ Đương thọ Như-Lai ký/ Kim ư thử địa thượng/ Nhi độ sanh tử chúng. (Dịch là: Cúi đầu lễ trưởng lão, Hiện nhận lời Phật ghi, Nay ở nơi xứ nầy, Độ chúng khỏi sanh tử).
Nói kệ xong, trong chớp mắt không thấy cô gái nữa. Ngài bảo chúng: Giây lát đây sẽ có ngoại đạo đến đấu sức với ta. Vừa dứt lời, bỗng chốc gió mưa ầm ĩ xối xả kéo đến, khiến trời đất mịt mù. Ngài bảo: “Đây là báo hiệu ngoại đạo sẽ đến. Ta sẽ trừ chúng”. Nói xong, Ngài chỉ tay lên hư không, hiện ra con rồng vàng to lớn, phấn khởi oai thần, khiến pháp ngoại đạo tan biến.
Sau bảy ngày, có một con sâu nằm nép dưới tòa của Ngài. Ngài lấy tay nắm bắt con sâu ấy đưa cho đại chúng xem và nói: “Con sâu nầy là trá hình của ngoại đạo, đến ẩn núp nơi đây đặng nghe trộm pháp của ta”. Nói xong, Ngài ném con sâu ra nhưng con sâu sợ hãi nằm im không động đậy. Ngài an ủi: “Ta không có hại ngươi. Ngươi hãy hiện lại bổn hình”. Ngoại đạo liền hiện bổn hình đảnh lễ xin sám hối. Ngài hỏi: “Ngươi tên gì? Có bao nhiêu đồ đệ?” Ngoại đạo thưa: “Con tên Ca-Tỳ-Ma-La, có đến ba ngàn đồ đệ”.
Ngài hỏi: Tột thần lực của ngươi biến hóa thế nào? Ngoại đạo thưa: Con hóa biển cả là việc chẳng khó. Ngài hỏi: Ngươi hóa tánh biển được chăng? Ngoại đạo mờ mịt không biết, thưa: Lời nầy con không thể biết. Ngài vì giải thích: Tánh biển là núi sông quả đất đều y cứ nơi đó mà lập, tam muội lục thông do đây phát hiện.
Ngoại đạo nghe pháp ấy, liền khởi lòng tin mạnh mẽ, cùng ba ngàn đồ đệ đều cầu xin xuất gia. Ngài vì họ cho cạo đầu xuất gia, rồi triệu tập năm trăm vị thánh tăng đến làm lễ thọ giới cụ túc. Ngài bảo giới tử: Các ngươi thú hướng Bồ-Đề sẽ thành đạo thánh. Ca-Tỳ-Ma-La quả nhiên được giới thể, phát hào quang sáng, có mùi hương lạ xông khắp.
Một hôm, Ngài gọi Ma-La đến bảo: Đại pháp nhãn tạng của Như-Lai, nay trao cho ngươi, truyền bá chớ để đoạn dứt. Nghe ta nói kệ: Ẩn hiển tức bổn pháp/ Minh ám nguyên bất nhị/ Kim phó ngộ liễu pháp/ Phi thủ diệc phi khí. (Dịch là: Ẩn hiện vốn pháp này/ Sáng tối nguyên không hai/ Nay truyền pháp liểu ngộ/ Không lấy cũng chẳng bỏ).
Truyền pháp xong, Ngài vào chánh định hiện tướng viên tịch. Ca-Tỳ-Ma-La và đồ chúng đem chơn thể của Ngài để vào khám thờ. Ngài là vị Tổ thứ 12 của Thiền Tông, cũng là một vị pháp sư làm sáng tỏ giáo pháp Đại Thừa. Ngài sáng tác ba bộ luận: Đại-Thừa Khởi Tín luận, Đại Tông địa huyền văn bổn luận, Sự sư pháp ngũ thập tụng. Trong đó nổi tiếng nhất là bộ Đại Thừa Khởi Tín luận đến hiện giờ những nước Phật giáo Đại Thừa vẫn truyền dạy bộ luận này.