Carcinoma của túi mật gặp ở khoảng 20% bệnh nhân đã phẫu thuật do bệnh đường mật. Bệnh thường âm ỉ và chẩn đoán thường được đưa ra một cách bất ngờ lúc phẫu thuật, sỏi mật thường có. Sự lan rộng của ung thư trực tiếp vào gan hoặc bề mặt phúc mạc có thể là biểu hiện ban đầu. Hệ thống phân loại TNM bao gồm các giai đoạn sau: Tis, carcinoma insitu; Tl, xâm lấn niêm mạc (Tla) hoặc lớp cơ (Tlb); T2, xâm lân mô liên kết bao cơ; T3, lan rộng vào thanh mạc hoặc vào cơ quan liền kề; T4: xâm lấn > 2cm vào gan hoặc > 2 cơ quan kề cận; Nl: di căn vào ống túi mật, quanh ống mật chủ hoặc hạch rốn; N2: di căn quanh đầu tụy, quanh tá tràng, quanh hệ cửa, bụng hoặc hạch mạc treo tràng trên.
Carcinoma ống mật ngoài gan chiếm 3% tất cả các trường hợp Tu vong do ung thư ở Mỹ. Cả hai giới bị bệnh ngang nhau nhưng tỷ lệ hiện mắc cao hơn ở nhóm tuổi 50- 70. Khối u thường phát sinh ở nơi tập hợp của các ống gan (u Klatskin). Sự phân giai đoạn là tương tự như trong carcinoma túi mật. Tần suất của carcinoma ở những bệnh nhân có nang ống mật chủ là trên 40% trong 20 năm, vì vậy nên phẫu thuật cắt bỏ. Có sự gia tăng tỷ lệ mới mắc ở những bệnh nhân viêm loét đại tràng, đặc biệt là những bệnh nhân viêm đường mật xơ hoá nguyên phát, ơ Nam A, nhiêm trùng đườpg mật do giun sán như sán lá gan là đi kèm với viêm đường mật mạn tính và tặng nguy cơ carcinoma đường mật.
Hoàng đảm tăng lên là dấu hiệu phổ biến nhất và thường là dấu hiệu đầu tiên của tắc nghẽn hệ thống đường mật ngoài gan. Đau thường có ở phần tư trên bên phải của bụng và lan ra sau lưng. Chán ăn và sụt cân là thường gặp và hay đi kèm với sốt, ớn lạnh. Hiếm hơn, nôn ra máu hoặc đi ngoài phân đen do sự ăn mòn của khối u vàọ các mạch máu (chảy máu đường mật). Hình thành đường rò giữa hệ mật và các cơ quan liền kề cũng có thể xảy rạ. Diễn biến thường là một đợt xấu đi nhanh với Tu vong xảy ra trong vài tháng.
Khám thực thể phát hiện hoàng đảm kín đáo. Túi mật có thể sờ thấy với hoàng đảm tắc nghẽn thường chỉ ra có bệnh ác tính rõ rệt (định luật Courvoisier); tuy nhiên, sự khái quát về mặt lâm sàng này chỉ chính xác khoảng 50% thời gian. Gan to thường có và đi kèm với nhạy cảm đau ở gan. Cổ trướng có thể gặp khi khối u lan vào phúc mạc. Ngứa và xước da là thường gặp.
Xét nghiệm cho thấy tăng chủ yếu bilirubin huyết liên hợp với giá trị bilirubin huyết thanh toàn phần dao động từ 5- 30 mg/dl. Thường có sự tăng đồng thời phosphatase kiềm và cholesterol huyết thanh. AST là bình thường hoặc tăng nhẹ. Mức CA 19-9 tăng có thể giúp phân biệt carcinoma đường mật với chít hẹp lành tính (không có viêm đường mật).
Những phương pháp có giá trị nhất trong chẩn đoán trước phẫu thuật là chụp đường mật qua da hoặc ngược dòng qua nội soi với lấy mẫu sinh thiết làm tế bào học dù kết quả tế bào học và sinh thiết âm tính giả cũng thường gặp.
Ở bệnh nhân trẻ và còn khỏe, có thể phẫu thuật nếu khối u khu trú rõ. Tỷ lệ sống sót 5 năm với carcinoma túi mật khu trú (giai đoạn 1, Tla, No, Mo) là cao 80% nhưng sẽ giảm xuống 15% nếu có xâm lân cơ (Tlb). Nếu khối u không thể cắt bỏ bằng phẫu thuật bụng, có thể mở thông túi mật tá tràng hoặc dẫn lưu bằng ống T ống mật chủ. Carcinoma đường mật có thể được điều trị bằng phẫu thuật dưới 10% các trường hợp. Có thể làm giảm được các triệu chứng bằng cách đặt lưới (stent) kim loại tự nong rộng qua nội soi hoặc qua da. Giá trị của liệu pháp tia xạ còn nghi ngờ. Tiên lượng xấu, chỉ một vài bệnh nhân sống sót trên 6 tháng sau phẫu thuật.
Nguồn: Internet.Chủ đề liên quan:
8 bệnh nhân 8 bệnh nhân khỏi bệnh bệnh nhân Bệnh nhân khỏi bệnh ca mắc ca mắc mới Các biện pháp các cơ chẩn đoán chống dịch dịch covid điều trị dự kiến đường mật khỏi bệnh mắc mới nâng cấp sở y tế thêm ca mắc Thêm ca mắc mới