Mô tả: Cây thảo sống lâu năm có thân rễ ngắn, dày, có rễ dạng sợi. Lá mọc từ gốc, nhiều, cứng dài tới 30cm, rộng 4-7mm. Thân mang hoa đơn, cứng, thường ngắn hơn lá; hoa màu hoa cà hay tim tím, xếp 3-5 cái thành xim nhỏ, dài 2-5mm. Quả mọng ngắn, hình trứng dạng cầu, màu xanh lam, có hạt không nhiều.
Nơi sống và thu hái: Cây mọc rộng rãi ở chỗ ẩm trong rừng nhiều nơi ở miền bắc Việt Nam, nhất là trong các nương cà phê. Cũng được trồng ở miền trung và cả ở Lào. Còn phân bố ở Nhật Bản, Trung Quốc. Người ta cũng thường trồng và thu hái củ vào mùa hạ và mùa thu, rửa sạch, loại bỏ các rễ con rồi phơi khô.
Tính vị, tác dụng: Vị ngọt và đắng, tính hơi lạnh, có tác dụng điều hòa huyết, làm tăng sự tiết nước bọt và chống ho. Tác dụng của nó cũng như Mạch môn nhưng hơi yếu hơn.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Thường dùng như Mạch môn để chữa: 1. Lao phổi, viêm phế quản mạn tính, viêm hầu mạn tính, ho khan; 2. Sốt, đánh trống ngực, môi khô, táo bón. Ngày dùng 6-15g dạng Thu*c sắc.
Nói chung, nó được sử dụng để bổ gan, lợi dạ dày, trừ đờm, chống ho, tiêu nóng, giải khát, nhuận phế, phụ nữ thiếu sữa, mặt bị phù.
Ðơn Thu*c: Chữa ho, viêm hầu, khản tiếng, dùng Cỏ tóc tiên, Thiên môn đông mỗi vị 360g, mật ong 180g, đun nóng để được một hỗn hợp sền sệt. Dùng 10-15g mỗi lần, uống với nước nóng.