Mô tả: Cây gỗ lớn. Lá mọc đối, 2-3 lần chẻ lông chim, dài có khi tới 70cm hay hơn; lá chét hình trái xoan ngọn giáo, nguyên hay khía tai bèo, cụt ở gốc, nhọn ở chóp, dài 2,5-5cm, rộng 2,5-3,7cm, dạng màng. Hoa trắng, thơm, thành chuỳ dạng ngù với các cành choãi ra, dài 20-40cm. Quả nang hình dải, bị ép, nhẵn, nhọn ở hai đầu, dài 25-40cm, rộng 2cm; hạt rất nhiều, dẹp, có cánh dạng bán nguyệt, dài 2-5cm, rộng 1,25cm.
Nơi sống và thu hái: Loài của Ấn Độ, Nam Trung Quốc (Vân Nam), Mianma, Lào, Campuchia, Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia và Việt Nam. Ở nước ta, thường gặp cây này trong rừng hỗn giao từ Bình Thuận, Lâm Ðồng tới An Giang. Cũng được trồng làm cảnh ở các nước ôn đới.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Ở Inđônêxia, vỏ được dùng làm Thu*c hạ sốt. Hoa có mùi thơm rất dễ chịu, dùng trộn với Thu*c lào để ướp hương cho có mùi Thu*c phi*n.