Dây quinh tàu, Lương vàng, Lăng vàng, Lăng nghệ, Chưn bầu dây - Combretum latifolium Blume (C. extensum Roxb.), thuộc họ Bàng - Combretaceae.
Mô tả: Dây leo có thân vặn, hình trụ, màu xám trắng, dài tới 10-15m. Lá hình bầu dục, tròn hoặc tù ở gốc, tù hay hơi có đuôi ngắn ở chóp, dai, nhẵn, dài 9-15cm, rộng 6-8cm. Hoa thành bông ở nách lá và ở ngọn, dày hoa, dài 5-7cm. Hoa vàng, thơm, có 8 nhị. Quả hình cầu hay hình trứng, có 4 cánh vuông có khía, cao 20-25cm, rộng 10-12mm. Hạt đơn độc, dạng thoi, có tiết diện vuông hay hình sao, dài 12-15mm, rộng 2mm.
Nơi sống và thu hái: Loài của vùng Ấn Độ, Malaixia, mọc nhiều ở Ấn Độ, Campuchia và Nam Việt Nam. Ở nước ta, cây mọc leo lên các cây gỗ và vách đá triền núi từ Kontum đến Bà Rịa-Vũng Tàu (Côn Đảo).
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Quả chát, được xem như là bổ. Dân gian dùng cành lá làm Thu*c trị nhức mỏi, sái khớp, đau nhức thắt lưng và trị bệnh về thận.
1. Sái cánh, sái khớp, nhức mỏi; dùng Dây quinh tàu 20g, Câu đằng 10g, Dây gân 10g, rễ Cam thảo cây 10g, Đỗ trọng dây 10g, Dây cổ rùa 10g, Dây gắm 10g, Nhàu 10g, Lạc tiên 10g, Cò sen 5g, cùng sắc uống (kinh nghiệm ở An Giang).