Mô tả: Lan mọc sát đất, có rễ bám vào đá trông dáng như con tằm. Thân có nhiều đốt màu đỏ hay tím hồng. Lá gần tròn, bầu dục, gốc có cuống thành bẹ, màu nâu tím óng ánh có vân trắng hình mạng rất rõ, mặt dưới màu hung đỏ. Cụm hoa nằm ở ngọn thân, ít hoa, có lông dày đặc. Hoa nhỏ, màu trắng với cánh môi màu vàng hình chữ T, đỉnh chia hai thuỳ, gốc có túi. Quả nang.
Nơi sống và thu hái: Loài của Nam Trung Quốc, Mianma, Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia. Cây mọc bám trê các hốc sườn núi và ở đỉnh núi đá vôi nơi có mùn ẩm, từ Lào Cai, Hoà Bình, Vĩnh Phú, Hà Tây cho tới Ðắc Lắc, Lâm Ðồng, Bình Thuận, Ðồng Nai, Côn Ðảo. Cây cũng thường được trồng làm cảnh ở trong chậu với đất mùn, tơi thoáng. Trồng bằng đoạn thân có rễ. Thu hái toàn cây quanh năm, rửa sạch, dùng tươi hay phơi khô dùng dần.
Tính vị, tác dụng: Vị ngọt, hơi chát, tính mát, có tác dụng tư âm nhuận phế, làm mát phổi, mát máu sinh tân dịch, tiêu viêm, lọc máu.
Ðơn Thu*c: - Chữa phổi kết hạch, khạc ra máu, và thần kinh suy nhược, kém ăn ít ngủ, tinh thần tiều tuỵ: Dùng Lan gấm 20-40g, Mạch môn, Huyền sâm, Ngưu tất, Quyết minh tử (sao), Hoài sơn, mỗi vị 20g sắc uống. Dân gian cũng còn dùng cây sắc uống chữa đau dạ dày.
Theo chúng tôi, một số sách dược liệu ở Việt Nam gọi tên chính cây này là Thạch tầm, Thạch tằm là không chính xác, nên cải chính là Thạch tàm. Vì đây là loài lan mọc sát đất, có rễ bám vào đá (thạch 石) trông giống như con tằm (tàm 蚕).
Theo Cây Thu*c và động vật làm Thu*c ở Việt Nam (Viện Dược liệu, tập 2), Thạch tàm là cây thảo ký sinh. Thân mềm mọng nước, phần dưới mọc bò, bén rễ ở các mấu, phần trên mọc đứng cao 15-25cm, hơi có lông. Lá mọc so le, hình bầu dục hoặc hình trứng, dài 4-7cm, rộng 2,5-3cm, gốc tròn, đầu hơi nhọn, mặt trên màu xanh lục, đôi khi màu tía, mặt dưới màu hồng tím, gân chính 3-5, hình cung; cuống lá dài, có bẹ ở gốc. Cụm hoa mọc ở ngọn thân thành bông dài 3-8cm, có lông dày đặc; lá bắc màu nâu vàng; hoa màu trắng; lá đài lưng dính liền với cánh hoa thành mũ có 3 răng, lá đài bên rời nhau; cánh môi màu vàng hình chữ T, cột dài bằng bao phấn; bầu có lông. Quả nang.
Về sinh thái, Thạch tàm là cây đặc biệt ưa ẩm và ưa bóng, thường mọc rải rác hoặc thành đám nhỏ lẫn trong lớp thảm mục hoặc ở hốc đá, dưới tán rừng kín thường xanh ẩm, ở độ cao 700-1.500m. Cũng thường được trồng làm cảnh. Lá và thân thường có màu tía hay đỏ nâu giúp cho cây vẫn có thể quang hợp được trong điều kiện ánh sáng yếu.
Về phân bố, theo Từ điển cây Thu*c Việt Nam (bộ mới, tập 2), Thạch tàm có ở Lào Cai, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Hòa Bình, Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Khánh Hòa, Đăk Lăk, Lâm Đồng, Ninh Thuận, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu. Còn có ở Mianma, Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Indonesia.
Theo Đông y, Thạch tàm có vị nhạt, hơi chát, tính mát; có tác dụng tư âm nhuận phế, kiện tỳ, an thần, làm mát phổi, mát máu, sinh tân dịch, tiêu viêm, lọc máu. Thường dùng để chữa lao phổi, khạc ra máu, thần kinh suy nhược, chán ăn. Liều dùng dược liệu khô 3-9g, tươi 10-20g, dạng Thu*c sắc.
Đơn Thu*c:
- Chữa phổi kết hạch, khạc ra máu, thần kinh suy nhược, kém ăn, ít ngủ, tinh thần tiều tụy: Thạch tàm, Mạch môn, Huyền sâm, Ngưu tất, Quyết minh tử (sao), Hoài sơn, mỗi vị 20g, sắc uống.
- Chữa viêm phế quản, ho: Thạch tàm, Lan củ dây (Bulbophylum concinnum), Ngọc trúc, Bách bộ, mỗi vị 20g, sắc uống.
Cần lưu ý, Thạch tàm hay Lan gấm và một số loài khác có hình thái tương tự như Lan kim tuyến (Anoectochilus setaceus) vốn là những loài có trữ lượng ít ở Việt Nam. Những năm gần đây chúng bị khai thác khắp các vùng núi cả ở miền Bắc lẫn trong Nam để bán qua biên giới. Hành động khai thác ồ ạt, thiếu kiểm soát, đã đẩy những loài này đến chỗ hiếm gặp, thậm chí có nguy cơ bị tuyệt chủng. Do đó vấn đề bảo vệ, bảo tồn, nghiên cứu nhân giống, nuôi trồng các cây Thu*c quý này cần được các ngành, các cấp đặc biệt quan tâm.
Hiện nay ngoài cây “Sâm đá” là Thạch tàm – Lan gấm nói trong bài này, cũng từ phía Bắc có một loài cây khác cũng được gọi “Sâm đá” với nhiều huyền thoại ngoa truyền, sẽ được chúng tôi đề cập trong một bài viết khác.