Mô tả: Cây nhỡ cao 1-3m. Lá đa dạng, phiến lá hình trái xoan, dạng tim, chia thùy hay không, có khi hình trái xoan thon, thường có răng, hơi có lông nhung, với lông hình sao hay không, ở mặt dưới có nhiều hơn, dài 10-20cm, rộng 5-24cm. Hoa màu tía, xếp 3-5 cái ở nách hay ở đầu cuối các nhánh có lá. Quả nang, dạng màng, cao 4cm, phía đỉnh cụt và rộng hơn ở gốc, với 5 góc có cánh, hầu như nhẵn, mở ở đỉnh; hạt rất nhiều, hình trứng ngược, dài 2mm, hơi sần sùi.
Nơi sống và thu hái: Loài phân bố từ Ấn Độ, qua Nam Trung Quốc, Việt Nam, các nước Nam Á châu tới Bắc úc. Ở nước ta, cây thường mọc ở các đồi cây bụi và các bãi ven suối trong rừng nhiều nơi. Cũng thường được trồng lấy sợi vỏ làm dây chống ẩm tốt.
Thành phần hóa học: Rễ chứa 0,01% alcaloid abromine, một sterol và digitomide và 0,1% base tan trong nước. Rễ khô chứa abromasterol A. Còn có các muối calcium, magnesium và các phosphat.
Tính vị, tác dụng: Rễ, lá có vị hơi đắng, tính bình; có tác dụng hoạt huyết tán ứ, tiêu thũng, tiếp cốt. Vỏ rễ có tác dụng điều kinh, tăng trương lực tử cung nhưng không có ảnh hưởng đáng chú ý đối với dạ dày và ruột.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Lá non và lá bánh tẻ, tước bỏ gân cứng, vò kỹ, thái nhỏ dùng nấu canh; canh có vị nhớt, mùi thơm như rau bí. Nhân dân dùng vỏ rễ làm Thu*c chữa bại liệt, lậu và điều kinh.
Ở Trung Quốc, rễ và lá dùng làm Thu*c trị đòn ngã gãy xương, kinh nguyệt không đều và mụn nhọt sưng đỏ.
Ở Ấn Độ, vỏ rễ dùng trị đau bụng kinh và dùng điều kinh ở các dạng sung huyết. Lá hãm uống chữa bệnh lậu với liều 2g dịch rễ tươi mỗi ngày, trộn với Hồ tiêu, dùng làm Thu*c lợi trung tiện, lợi tiêu hoá.