Mô tả: Cây nhỡ cao 1-4m. Lá hình bầu dục, thuôn - bầu dục, thuôn hay hình ngọn giáo, có góc ở gốc, thót nhọn và tù ở đầu, dài 8-25cm, rộng 2,5-7cm, dạng màng. Cuống lá dài 1-6cm. Hoa trắng, hồng hay tím, có họng vàng, thành xim ở ngọn dài 2,5-12cm. Quả hạch hình cầu hay có hai nhân, bao bởi phần còn lại của đài hoa, to bằng hạt đậu đen, nhẵn, có 2 ô. Hạt đơn độc trong mỗi ô, phẳng lồi, rất mỏng.
Nơi sống và thu hái: Loài của Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Campuchia, Malaixia, thường gặp ở rừng rậm khắp các độ cao. Ở nước ta có gặp ở Kon Tum, Ðắc Lắc, Lâm Ðồng cho đến đảo Phú Quốc (Kiên Giang). Cũng được trồng làm cảnh và làm hàng rào.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Ở miền Trung Việt Nam, lá được chế Thu*c uống trị sốt rét; rễ chữa hắc lào, ho, đau đầu. Quả cây ăn được.
Ở Malaixia, rễ dùng trị sốt rét; còn dùng nấu uống trị cảm cúm khi sinh nở. Giã nghiền thành bột, làm Thu*c đắp trị đau đầu và bệnh nấm ecpet. Rễ dùng đắp trị các vết đứt, vết thương, loét và lá nấu nước rửa có tác dụng như trên.
Ở Ấn Độ, nước sắc rễ dùng trị phong thấp, viêm phổi, đau đầu, bệnh về mắt, tai và đau ngực. Rễ và lá dùng ngoài đắp trị vết thương loét và đau đầu.
Ở Trung Quốc, lá và rễ dùng chữa đau phong thấp, đau xương, viêm phổi, bệnh về tai, về mắt; dùng ngoài trị dao chém, đòn ngã tổn thương.