Mô tả: Cây gỗ cao 20-30m. Lá nguyên, hình bầu dục hay ngọn giáo ngược, có mũi nhọn ở đầu, thon hẹp ở gốc, có mép hơi lượn sóng. Hoa thành ngù ở nách lá hay ở ngọn và phân nhánh nhiều, gồm 20-30 hoa dài 1,5cm. Quả dạng quả mọng, gần như hình cầu, đo đỏ, có đường kính 1cm. Ra hoa tháng 2-3, có quả tháng 5-6.
Nơi sống và thu hái: Loài phân bố ở Tân Ghinê, Molluyc, Philippin, Inđônêxia, bán đảo Malaixia , đảo Andaman, Mianma, Thái Lan và Ðông dương. Ở nước ta, có gặp ở Bắc Giang và nhiều nơi ở miền Nam (Ðắc Lắc, Lâm Ðồng, Kiên Giang). Cây mọc trong các rừng thứ sinh, nơi đất hoang, trên bờ ao, đất ngập theo chu kỳ rồi khô, kể cả đất khô, lầy, có bùn hay có cát... Cây phát triển chậm và chu kỳ ra hoa tuỳ thuộc vào sự xen kẽ mùa khô và ẩm. Cũng được trồng làm cây trang trí ở các đường phố Malaixia, Inđônêxia.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Vỏ cây và lá, sắc uống dùng làm Thu*c trị lỵ, sốt rét. Lá giã ra và nấu lên lấy nước tắm rửa chữa bệnh ghẻ.
Lõi cây dùng trong y học dân gian Campuchia trị bệnh đường tiêu hoá. Vỏ cây cũng được những người già dùng để kéo dài tuổi thọ.
Trai hay trai lý, trai Nam Bộ (Tên khoa học: Fagraea fragrans) là cây thường xanh lớn, loài bản địa của Đông Nam Á. Danh pháp đồng nghĩa là Fagraea cochinchinensis, Cyrtophyllum giganteum và Cyrtophyllum peregrinum, thuộc tông Potalieae của họ Gentianaceae (tông này trong các tài liệu cũ được tách ra thành họ Potaliaceae - họ Lậu bình