Mùa xuân được coi là khoảng thời gian cho hạnh phúc nở hoa kết trái. Trong thời gian mang thai, hầu hết phụ nữ đều có thể xuất hiện bệnh trên da. Trong các bệnh da này, có một số bệnh không ảnh hưởng gì lớn cho mẹ và thai nhi, nhưng cũng có các bệnh da gây nguy hiểm cho cả mẹ và thai nhi.
Mùa xuân được coi là khoảng thời gian cho hạnh phúc nở hoa
kết trái. Trong thời gian
mang thai, hầu hết phụ nữ đều có thể xuất hiện bệnh
trên da. Trong các bệnh da này, có một số bệnh không ảnh hưởng gì lớn cho mẹ và
thai nhi, nhưng cũng có các bệnh da gây nguy hiểm cho cả mẹ và thai nhi. Bởi
vậy, chúng ta cần tìm hiểu để có thái độ xử trí thích hợp khi thai phụ có bệnh
trên da.
Những bệnh thường gặp
Mày đay sẩn ngứa là bệnh hay gặp nhất ở phụ nữ có thai. Bệnh
thường xuất hiện vào 3 tháng cuối thai kỳ, tổn thương xuất hiện từ trên các vết
rạn da ở vùng bụng, là các ban mày đay nhỏ, màu đỏ, hơi phù nề, liên kết với
nhau thành đám. Trên ban có mụn nước nhỏ, sau vài tuần, ban sẩn có thể lan đến
đùi, mông, ngực, cánh tay, lưng..., thường rất ngứa nhưng không nguy hại cho mẹ
và thai nhi.
Bệnh xảy ra do sự căng lên nhanh chóng của thành bụng, gây
tổn thương các sợi liên kết tạo ra phản ứng viêm. Một nghiên cứu cho thấy: có
ADN của thai nhi là con trai trong mảnh da sinh thiết từ các ban sẩn của
mẹ, đóng vai trò như chất kích thích da
gây ngứa.
Điều trị: dùng Thu*c mỡ steroide bôi lên vùng da bệnh từ 5 -
6 lần/ngày để giảm ngứa và phòng tổn thương lan rộng. Trường hợp nặng có thể
dùng steroide, Thu*c kháng histamin uống phối hợp để giảm ngứa và giúp ngủ
được. Bệnh thường kéo dài khoảng 6 tuần và tự khỏi sau khi sinh khoảng 1 - 2
tuần, nhưng ngứa có thể kéo dài hơn
Sẩn ngứa nang lông thường phát vào 3 tháng giữa của thai kì,
lúc đầu là các nốt màu đỏ, nhỏ, không có mủ, xuất hiện ở vai, nửa lưng trên,
cánh tay, ngực và bụng tương tự trứng cá, rất ngứa. Bệnh có thể tự khỏi sau khi
sinh 2 - 3 tuần.
Có nghiên cứu cho rằng bệnh do thay đổi hormon. Điều trị
tương tự như trứng cá mức độ nhẹ. Có thể bôi benzoyl peroxide, uống kháng
histamin chống ngứa. Bệnh không làm tăng nguy cơ đẻ non hay sảy thai.
Bệnh pemphigoide là bệnh tự miễn, thường xuất hiện trong 3
tháng giữa thai kỳ đến một thời gian ngắn sau khi sinh. Biểu hiện: ngứa dữ dội,
sau đó hình thành những mảng đỏ cứng ở quanh rốn. Sau 2 - 4 tuần, các mảng đỏ
này lan rộng ra, xuất hiện mụn nước và mụn mủ ở xung quanh bờ, tạo thành hình
zic zắc hay vòng vèo hoặc thành đám kiểu herpes nên có tên gọi bệnh herpes ở
phụ nữ có thai, lan rộng dần ra thân mình, lưng, mông, cánh tay, bàn tay và bàn
chân nhưng không có ở mặt, trên đầu và trong miệng. Có đến 75 - 80% ca bệnh
bùng phát mạnh lên trước sinh. Bọng nước khỏi không để lại sẹo, trừ khi có bội
nhiễm. Bệnh do tự miễn dịch, kháng thể sẽ kết hợp với một típ của tổ chức liên
kết trên da gây viêm, đỏ, ngứa, hình thành bọng nước. Điều trị: có thể bôi kem
steroid và kháng histamin. Trường hợp nặng, cần uống steroid.
Ảnh hưởng đến thai nhi: do kháng thể đi qua rau thai nên
bệnh ảnh hưởng đến thai nhi. Trẻ sinh ra có thể bị phát ban, nhưng ban thường
tồn tại trong thời gian ngắn và có thể tự khỏi mà không cần điều trị. Bệnh
không gây nguy cơ sảy thai hay thai ch*t khi lọt lòng.
Những bệnh có ảnh hưởng nặng đến mẹ và thai nhi
Chốc dạng Herpes được coi là một dạng của vảy nến thể mủ.
Đến nay, chưa rõ chốc dạng Herpes có phải là bệnh riêng biệt do thai nghén hay
là một hình thái vảy nến thể mủ bị nặng lên
mang thai">khi
mang thai. Bệnh bắt đầu vào 3
tháng cuối của thai kì, tổn thương đầu tiên là những mảng đỏ ở mặt trong đùi
hay bẹn, trước và sau cổ. Trên các mảng đỏ da là những mụn mủ nhỏ li ti, cụm
lại thành đám và có xu hướng lan ra xung quanh. Có những mụn mủ mới xuất hiện
trên nền ban đỏ gờ lên ở ngoại vi, trong khi những mụn mủ ở trung tâm xẹp xuống
bong vảy và lành. Các mụn mủ lan ra thân mình và chi, nhưng rất ít khi ở mặt,
bàn tay và bàn chân, nhưng cũng có thể thấy ở niêm mạc miệng và giường móng.
Triệu chứng toàn thân gồm: sốt, rét run, buồn nôn, nôn, tiêu chảy và mệt mỏi.
Số ít bệnh nhân bị hạ canxi, phosphat, albumin trong máu, nhất là những người
có tiền sử bị suy giảm tuyến cận giáp.
Điều trị chủ yếu bằng prednisolon với liều cao 60mg/ngày để
kiểm soát sự phát ban, nhưng khi kiểm soát được bệnh, cần hạ liều từ từ vì có
nguy cơ tăng bệnh do hạ liều quá nhanh. Dùng kháng sinh thích hợp để chống
nhiễm khuẩn da tại chỗ và nhiễm khuẩn toàn thân. Bù canxi, albumin kịp thời nếu
hạ thấp.
Chốc dạng Herpes có thể gây nguy cơ cao cho thai nhi gồm: đẻ
non, ch*t thai nên những thai phụ cần được các thầy Thu*c chuyên khoa da liễu,
sản khoa và nhi khoa theo dõi chặt chẽ.
Ứ mật trong gan xuất hiện vào 3 tháng cuối thai kỳ, thường
thấy ở những thai phụ có thai đôi. Ngứa bắt đầu ở lòng bàn tay, bàn chân, sau
đó lan ra các vùng cơ thể. Có thể thấy các ban đỏ xuất hiện trên các vết ngứa.
Khoảng 10 - 15% thai phụ có vàng da, sau khi thấy ngứa 2 - 4 tuần. Các dấu hiệu kèm theo là chán ăn, mệt
mỏi, phân nâu, nước tiểu thẫm, khó chịu vùng thượng vị, nhiễm khuẩn đường tiết
niệu, thiếu vitaminK. Sau khi sinh, các triệu chứng ngứa và vàng da đều tự
khỏi. Căn nguyên của bệnh là do rối loạn bài tiết mật, gây ứ đọng muối mật
trong gan, acid mật tăng lên trong máu, làm lắng đọng trong da gây ngứa dữ dội.
Nồng độ cholesterol, triglyceride và bilirubin cũng tăng lên.
Bệnh gây ảnh hưởng đến thai nhi: do thiếu khả năng điều tiết
mật, gan thai nhi cũng chịu ảnh hưởng của sự ứ mật, có thể làm tăng nguy cơ
sinh non và thai ch*t trong tử cung.
Điều trị: có thể dùng các sản phẩm làm mềm da, sữa tắm để
chống ngứa. Thu*c hỗ trợ tiết mật có tác dụng giảm ngứa và tiết mật. Khám và
theo dõi bởi bác sĩ chuyên khoa sản.
BS. Nguyễn Bùi Kiều Linh