Mô tả: Cây bụi cao tới 2-3m, có thân thẳng, mang ở ngọn 4-10 nhánh mảnh. Lá mọc so le, hình bầu dục, thuôn, nhọn ở hai đầu, dài 8-16cm, rộng 2-4cm, có mép gấp xuống dưới có khía tai bèo nhiều và rộng, với những tuyến đen. Hoa trắng hồng, hồng hoặc đỏ, xếp 4-11 cái thành ngù dạng tán ở ngọn các nhánh. Quả hình cầu, đường kính 4-7mm màu đỏ tía có mũi nhọn lồi ở đầu. Hạt đơn độc, có vết lõm ở gốc khá sâu.
Bộ phận dùng: Rễ, lá và toàn cây - Radix, Folium et Herba Ardisiae Crenatae. Rễ trọng đũa mềm, nạc, ngoài phớt hồng, cắt ra thì thấy có chấm đỏ như máu, nên ở Trung Quốc người ta gọi nó là Chu sa căn.
Nơi sống và thu hái: Cây gặp ở rừng thưa hoặc rừng cây gỗ có nhiều ánh sáng (tới độ cao 1000m), ở nước ta và nhiều nước nhiệt đới châu á. Có thể thu hái rễ cây quanh năm, rửa sạch, thái mỏng, phơi khô.
Tính vị, tác dụng: Vị đắng, cay, tính bình, có tác dụng trấn thống tiêu thũng, khư phong trừ thấp, thanh nhiệt giải độc.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Ở nước ta cũng như ở Malaixia, người ta dùng ngọn và lá non, cho muối vò qua, rửa sạch, thái nhỏ, nấu canh ăn, ít khi dùng ăn sống như xà lách.
Ở Trung Quốc toàn cây dùng trị phong thấp đòn ngã, hầu họng sưng đau, đan độc, viêm hạch limphô, dao chém xuất huyết, tâm vị khí thống. Liều dùng 3-10g dược liệu khô sắc nước uống, hoặc dùng rễ tán bột uống, còn dùng phối hợp với các vị Thu*c khác làm Thu*c chữa bị thương, gẫy xương. Dùng ngoài lấy rễ hoặc lá tươi giã đắp.
Ở Malaixia, dịch của rễ dùng uống trị sốt rét và ỉa chảy; rễ nấu nước dùng cho phụ nữ uống sau khi sinh đẻ.