Cây nhỏ cao 2 - 4m, có thân thẳng, màu trăng trắng. Lá kép lông chim lẻ, có 11 - 15 đôi lá chét, mặt trên màu nhạt bóng, mặt dưới có lông tơ mềm và trắng. Hoa màu vàng xám, xếp thành chùm dày, dài 10 - 20cm ở ngọn, dựng đứng và dày đặc. Quả hình tràng hạt, có lông mềm; hạt hình cầu, màu vàng, dài 7mm.
Cây phân bố rộng rãi ở các vùng ven bờ biển của Việt Nam, Campuchia, Ân Độ, Philippin. Ở nước ta, Hòe lông phân bố trên các bãi cát ở các đảo từ Quảng Ninh đến tận Vũng Tàu - Côn Đảo (Côn Đảo) và Kiên Giang (Phú Quốc).
Rễ và hạt chứa alcaloid lỏng bay hơi, sophorine tương đồng với cytisin; các alcaloid khác là matrin, methylcytisin, cytisin và một base chưa xác định.
Hạt có vị rất đắng; vỏ rễ cũng đắng, có tác dụng làm se. Ở Ân Độ, rễ và hạt được xem là đặc hiệu trong các bệnh về mật.
Hạt và rễ dùng trị ỉa chảy và thổ tả. Ở Malaixia, người ta dùng trị ỉa chảy vì bị ngộ độc gây ra do ăn phải cá độc. Liều dùng 3 hạt trong các trường hợp thông thường, và 7 hạt khi bị thổ tả, giã ra ngâm trong nước để uống. Với liều này sẽ ngưng nôn mửa.
Nguồn: Internet.