Đó là các trường: Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Bách khoa Hà Nội thuộc nhóm 801-1000 thế giới và Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh trong nhóm 1000 . Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Quốc gia Hà Nội đạt mức điểm 22,2 - 28,2 của THE.
Trong đó, Đại học Quốc gia Hà Nội có các chỉ số về giảng dạy, nghiên cứu khoa học và hội nhập quốc tế đứng đầu trong nhóm các cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam có mặt trong Bảng xếp hạng.
Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh đứng đầu về chỉ số thu nhập từ doanh nghiệp. Trong khi đó, Đại học Bách khoa Hà Nội có chỉ số về trích dẫn khoa học cao nhất.
Năm nay, THE xếp hạng cho 1.395 cơ sở giáo dục đại học trên tổng số 1.820 cơ sở giáo dục đại học tham gia xếp hạng. Đây là con số lớn nhất từ trước đến nay trong quy mô xếp hạng đại học thế giới của THE. Các cơ sở giáo dục này thuộc 92 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Giảng dạy (môi trường học tập) với trọng số điểm xếp hạng là 30% và 5 tiêu chí xếp hạng, bao gồm: kết quả khảo sát về uy tín giảng dạy (15%), tỷ lệ giảng viên/sinh viên (4,5%), tỷ lệ học viên nghiên cứu sinh/sinh viên đại học (2,25%), tỷ lệ giảng viên là tiến sĩ (6%), và thu nhập của đơn vị (2,25%).
Thu nhập của trường đại học được THE tính thông qua chỉ số sức mua tương đương, phản ánh mức độ đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị cho hoạt động dạy và học ở trường đại học.
Nghiên cứu (số lượng; thu nhập; uy tín) với trọng số 30%, bao gồm: Kết quả khảo sát về uy tín nghiên cứu khoa học (18%), thu nhập từ nghiên cứu (6%), và năng suất nghiên cứu (6%).
Trích dẫn (số trích dẫn quốc tế trung bình của một công trình của trường đại học) với trọng số 30%. Dữ liệu được tính thông qua 23.400 tạp chí khoa học thuộc cơ sở dữ liệu Scopus trong giai đoạn từ năm 2014 đến 2018. Lượng trích dẫn được tính cho các ấn phẩm này trong giai đoạn từ năm 2014 đến 2019. Đã có 12,8 triệu công bố và 77,4 triệu trích dẫn được tính toán.
Quốc tế hóa (về cán bộ, sinh viên, nghiên cứu) với trọng số 7,5%, bao gồm: Tỷ lệ giảng viên quốc tế (2,5%), tỷ lệ sinh viên quốc tế (2,5%), và chỉ số hợp tác quốc tế (2,5%), thông qua số công bố khoa học có ít nhất 1 đồng tác giả là học giả quốc tế.
Thu nhập từ doanh nghiệp (chuyển giao tri thức) với trọng số 2,5% tính thông qua tổng thu nhập từ chuyển giao công nghệ và tri thức cho doanh nghiệp.
Ngoài việc lọt vào nhóm 801 - 1.000 thuộc Bảng xếp hạng đại học thế giới của THE, ĐHQG Hà Nội còn nằm trong nhóm 801 - 1.000 thuộc Bảng xếp hạng đại học thế giới của QS, đứng thứ 124 trong Bảng xếp hạng đại học châu Á của QS. Tại Bảng xếp hạng Webometrics (về xây dựng đại học số hóa), ĐHQG Hà Nội cũng tiếp cận top 1.000 thế giới và đứng đầu các cơ sở giáo dục đại học tại Việt Nam.
ĐHQG Hà Nội cũng có nhiều ngành đào tạo thuộc top 1.000 thế giới trong bảng xếp hạng QS như: Nhóm ngành vật lý và thiên văn học, nhóm ngành kỹ thuật cơ khí, hàng không và chế tạo, nhóm ngành khoa học máy tính và hệ thống thông tin. Riêng đối với lĩnh vực Vật lý, ĐHQG Hà Nội là cơ sở đại học duy nhất ở Việt Nam được US NEWS xếp hạng và đứng thứ 502 thế giới.
Theo Bảng xếp hạng thế giới 2020 của THE, ĐH Oxford năm thứ 4 liên tiếp giữ vị trí số 1, ĐH Cambridge rơi xuống vị trí thứ 3, trong khi Viện Công nghệ California tăng 3 bậc, lên vị trí thứ 2. Các trường đại học Stanford, Yale, Harvard đều có mặt trong top 10. Ở châu Á, các trường đứng đầu là Đại học Thanh Hoa (thứ 23 thế giới), Đại học Bắc Kinh (24) và Đại học Quốc gia Singapore (25). Khu vực Đông Nam Á, trong top 1.000 của bảng xếp hạng này, Thái Lan có 16 trường, Malaysia 13 trường, Indonesia 6 trường, Singapore 2 trường.Chủ đề liên quan:
bảng xếp hạng đại học thế giới trường đại học bách khoa trường đại học quốc gia việt nam xếp hạng