Kinh Pháp cú, bài kệ 135, phẩm Đao trượng, nói: “Như người chăn trâu cầm gậy lùa đàn trâu ra đồng cỏ. Cũng vậy, tuổi già và sự ch*t xua đuổi mạng sống ra đi”.
Không hung hăng tàn bạo, bản tánh vốn thuần hậu dễ sai khiến, siêng năng và nhiều nhẫn nại; nhưng lại hay làm bậy do sự si ngốc. Đó là đặc tính của trâu, mà cũng là đặc tính của chúng sinh. Phật không nhất thiết coi chúng sinh như trâu bò. Kinh Phật mà nói đến trâu, là nói đến bản tính si ngốc, vô trí nơi mỗi loài chúng sinh. Hiệu của Phật là Điều ngự sư, nên Ngài là một người chăn, hay một người đánh xe khéo léo, đưa chúng sinh đến thành trì an lạc của giải thoát.
Sự si ngốc của chúng sinh không chỉ có một. Nó si ngốc tùy theo loại, nên cũng có cấp bậc, có mỗi cách điều phục riêng biệt. Từ các hàng phàm phu, cho đến các hàng Thanh văn, Bồ tát và cả đến các thiền sư, ngoại hạng, mỗi hành động và mỗi nỗ lực cho hành động, đều được ví với các cách chăn trâu.
Những người chăn trâu sau khi nghe Phật giảng các cách chăn trâu cặn kẽ như vậy, rất lấy làm thán phục. Họ kinh ngạc, không tưởng được một hoàng tử suốt đời chưa từng chăn trâu, mà lại biết rành rẽ về các cách chăn trâu như vậy. Họ nói với nhau rằng, trong nghề của mình, biết nhiều lắm ba hoặc bốn chuyện. Dù đến bậc thầy chăn trâu cũng chỉ biết năm hay sáu chuyện là cùng. Phật lại biết cả mười một cách, quả Ngài là bậc Nhất thiết trí. Theo họ, Nhất thiết trí, một danh hiệu thường được dùng tôn xưng đức Phật, có nghĩa là cái gì cũng biết, cả đến việc chăn trâu cũng phải biết.
III. Trâu của Bồ tát:
Trước đây, trong quyển tranh chăn trâu, do nhà An Tiêm xuất bản, tôi có cho in các bài văn ngắn của các cao tăng Trung hoa thời xưa, và trích dịch 30 bài thơ, vừa xướng vừa họa, cũng của các cao tăng Trung hoa, về tranh chăn trâu. Nay nhân dịp này, tôi dịch ra đây mười bài thơ khác, trích trong quyển Tịnh độ chứng tâm tập, của Vạn Liên, đời Thanh, trước thuật.
Đại thừa lấy việc chăn trâu dụ cho việc luyện tâm. Cái tâm đó, nguyên lai thuần hậu, nhưng đã bị đánh lạc mất, để nó chạy rông, buông lung theo sở thích không biết gì đến những hiểm nguy rình rập, cho nên phải tìm lại, và chế ngự cho thuần tính. Từ khi tìm trâu để chăn cho đến khi việc chăn thành tựu, trải qua mười giai đoạn:
1) Tìm trâu:
Giá điều tuấn lĩnh thảo ly ly
Hoa lạc lâm gian bát nhãn mi
Đáo thử dĩ tương trân thế cách
Na biên ưng bả tục tình di
Trùng trùng hàng thọ hàm thù thắng
Yết yết dư hà đĩnh tú ti
Mịch biến khê sơn vô tích thú
Hồn nhiên đại khởi nhất đoàn nghi.
Núi cao cây cỏ mịt mùng
Vén mày tìm lối hoa rừng mà qua
Chợ đời một cõi cách xa
Tình đời thôi hãy gác ra cõi ngoài
Chập chùng biết mấy hàng cây
Ráng chiều vời vợi vẻ ngày lên cao
Nầy non kìa suối tìm đâu
Lòng ôm một nỗi mấy bầu hòai nghi.
2) Thấy dấu:
Thanh phong xuy phá bích vân yên
Trực thượng cao phong tuyệt đảnh biên
Khê lộ điều điều lai nhãn để
Đề ngân ẩn ẩn đáo ngân tiền
Tương phùng tợ suyển tùng sao nguyệt
Tạc hiến như khuy tỉnh lý thiên
Truy hướng Qui sơn cừ diện mục
Giá hồi y cựu bất năng xuyên.
Gió lành thổi dạt mây mờ
Trèo lên tuyệt đỉnh trơ vô tuyệt vời
Liếc chừng con suối chảy xuôi
Dấu chân thấp thoáng đây rồi phải chăng
Tuồng chi thông réo vờn trăng
Vẻ chi đáy giếng mà trong bóng trời
Non Qui chắc có mặt mầy
Rồi ra chẳng biết đường dây mối nào.
3) Thấy trâu:
Ngưu nhi nhất kiến tự vong ưu
Đầu giốc tranh vanh tượng ngoại du
Bất hưởng cốc trung hô bất trụ
Vô âm dương xứ hoán vô hưu
Chân hình lộ địa tiền sinh ngộ
Thật trí huy thiên xuất thế lưu
Không bả tị thằng nan hạ thủ
Ngưng mâu trực thị cánh thâm u.
Thấy trâu lọ phải ưu sầu
Sừng chông chênh chếch ra màu xa khơi
Kêu vang hốc núi dội lời
Mà đâu thanh khí cho hòai công lao
Duyên đời rồi sẽ gặp nhau
Trí lay trời rộng cõi nào sánh ngang
Làm sao xỏ mũi tay thừng
Tròn xoe con mắt trông chừng xa xa
4) Được trâu:
Đốn triệt thiên nhiên thân ngoại thân
Dã hồ tinh mị cảm đồng luân
Ngang đầu cố thị hòa thân chuyển
Ổn bộ du hành thoát tục trần
Đạp khước hoá thành tam bách chủng
Canh lai pháp địa thập phấn xuân
Đoan đoan tị khổng thâm thâm quán
Bảo thọ âm trung hảo dưỡng thần.
Rõ ràng vóc dạng rồi nha !
Chồn kia cáo nọ không là giống chi
Ngẩn đầu quay lại bước đi
Thong dong dạo bước mơ gì trần ai
Ba trăm quán trọ qua ngay
Về nơi đất pháp công cày nên xuân
Sít sao mũi buộc dây thừng
Cây sao bóng rủ kề lưng giấc hòe
5) Chăn trâu:
Địa khoát thiên cao nhiệm mục đồng
Khê nam khê bắc dữ khê đông
Nhân ca nhất khúc tri không hữu
Tinh khán thiên kinh dẫn dị đồng
Hàm trạch phong gia mao ốc cổ
Triệu châu chỉ thú mính hoa dung
Quát kim huấn luyện thù tiêu tức
Biến lịch u lâm khí tượng hùng.
Mục đồng đất chở trời che
Này nam, này bắc, này khe mấy dòng
Nghêu ngao mấy khúc Có Không
Đọc kinh mấy quyển Dị Đồng dửng dưng
Nhà tranh mái cũ quen chừng
Chén trà lão Triệu mà chưng hoa ngàn
Dạy trâu nào phải nhọc nhằn
Quyền uy đậy cả một vùng cỏ cây
6) Cưỡi trâu:
Nhị thập dư niên trụ thử san
Xuất san hung thứ thủy an nhàn
Cao phao thoa liệp tùy phong vũ
Hảo điệu tiều ca dật hứng ban
Hoa vũ phi lai do phá xuyết
Vân lâm qui khứ thiểu đồng ban
Bát khai phách tử thành tiêu sái
Ổn tọa bồ đoàn triển tiếu nhan.
Hai mươi năm lẻ non này
Mới yên tất dạ từ đây giã từ
Tung nón lá, gió đong đưa
Cao lời thấp giọng chi thua lão tiều
Mưa hoa cánh áo dập diều
Rừng mâu trên đó ngược chiều dưới ni
Dang tay phách nhịp đi đi
Ngồi chơi nệm cỏ mặt hi cười cười
7) Quên trâu:
Đắc thủ công huân diệc thị vô
Vong tình tuyệt lự nhất thân cô
Du du độc toạ văn đề điểu
Tịch tịch không hòai quyển trú đồ
Tự tích dĩ phùng chân tục thú
Nhi kim bất cổ súc thì đồ
Hồn dung cư chỉ thùy vi chủ
Tất cánh tiêu dao một thử mô.
Xong rồi công khó thành chơi
Quên tình quên nghĩa cho người lẻ loi
Ngồi nghe chim hót chơi vơi
Tranh chiều rủ xuống đất trời lạnh tăm
Ngày xưa Chân , Tục xăm xăm
Bây giờ một dứt mấy tầm cũng thôi
Nếp nhà bỏ đó mặc ai
Tiêu dao một chuyến cho đầy ước mong.
8) Vắng hết:
Tịch diệt trân hòai khởi chánh tràng
Đốn dung minh ám thú phi thường
An nhiên thoát sái thành du viễn
Trực hạ trừng ngưng tuyệt ẩn tàng
Ngọc lậu điêu tàn thiên địa hiểu
Kim thương ninh tĩnh quốc dân khang
Ưu du vẫn khế đoan hô xuất
Nhất vị tiêu dung giác tánh vong.
Từ nay cõi Đạo nức lòng
Lẽ thường sáng tối ôm tròn, lạ thay !
Nhởn nhơ tách bước cõi ngoài
Màu trong tiếng lặng tuyệt vời chìm xa
Canh tàn trời đất sáng ra
Quăng thương liệng giáo quốc gia thái bình
Rong chơi theo tiếng tâm tình
Vẻ chi giác tánh mà mình đeo mang
9) Về nguồn:
Thượng hạ giao huy thấu triệt thanh
Qui phàm phong chánh lải chu hành
Nguyên tuyên cổn cổn tri hà hứa
Trí hải thâm thâm thùy cảm bình
Đổng triệt thiên tâm thuyên biểu lý
Đoan tư chí thú ức tung hòanh
Đoàn loan bản trí nan đồng thưởng
Chiếu khí xung hòa vạn hủy sanh.
Một màu trên dưới trong xanh
Cánh buồm thuận gió con thuyền lênh đênh
Suối nguồn như thác đổ ghềnh
Sâu xa biển Trí ai bình cho xuôi
Tỏ bày cao vút lòng trời
Dọc ngang chi đó thú này trong tay
Tròn xoe gốc cội khôn hay
Hơi xông ngui ngút phủ đầy cỏ hoa.
10) Vào chợ:
Đại triển gia phong độc lộ ki
Thanh sơn khước chỉ dã vân phi
Giang hà thủy mãn triền thành khoát
Tỉnh lý xuân thâm nguyệt sắc vi
Tọa đối lục dương tiêu tức hảo
Hành khan bạch cổ tự tri qui
Sư nhi tận sổ phiên cân đẩu
Bất xuất lão tăng kim lũy ...(?)
Rõ ràng một bóng thói nhà
Núi xanh chỉ thấy la đà từng mây
Phố thị rộng, nước sông đầy
Màu trăng mờ nhạt xuân dày ruộng nương
Ngồi xem vẻ biếc cành dương
Con trâu trăng trắng thuộc đường vãng lai
Mấy lần sư tử ra oai
Làm sao hơn nổi áo thầy mà mong.
IV. Trâu của thiền sư:
Thiền sư không biết tụng kinh, chỉ biết gánh nước, đốn củi, vo gạo nấu cơm. Chăn trâu có nhiều phép tắc, sư làm sao nổi? Việc của mình thiền sư không thông, nhưng lại thông việc của người khác. Bây giờ thử coi các thiền sư có trâu hay không, và có, thì chăn bằng cách nào ?
1) Có thầy tăng hỏi Thiền sư Nam Tuyền: “Một trăm năm nữa, Hòa thượng đi về đâu?” Sư đáp: “Đi làm một con trâu”.
Sư Phần Dương Thượng Chiêu làm bài tụng:
Loại trung nan biện yếu phân minh
Đới giốc phi mao tốt vị tinh
Hàm thủ thảo lai phương định động
Đầu đầu vật vật tự chân linh
Phải biết cùng loài thì khó biết
Mang lông đội sừng giống nhau hết
Ngậm cỏ đưa về rồi mới hay
Trông trước trông sau ra giả thiệt.
Ý muốn nói, Hòa thượng Nam Tuyền cũng một loại với trâu. Trâu thiệt hay trâu giả, mang cỏ đến nhử nơi mỏm sẽ rõ.
2) Thiền sư Dược Sơn, trong buổi vãn tham không đốt đèn. Sư nói: “Ta có một câu, đợi cho trâu nghé sinh con rồi sẽ nói cho quý vị biết. Bấy giờ có một thầy tăng bước ra, lên tiếng: “Nghé sinh con rồi. Chỉ có Hòa thượng không chịu nói đó thôi”. Sư kêu thị giả mang đèn đến. Thầy tăng đó rút lui vào trong chúng.
Thiền sư Phật Nhãn Thanh Viễn làm bài tụng:
Độc ngưu sinh tử phả tương am
Lưỡng nhãn thông hồng sắc tợ lam
Bả hỏa chiếu lai vô mịch xứ
Đại gia phổ thỉnh nhất thời tham.
Trâu nghé đẻ con biết nhau quá
Hai mắt đỏ kè mặt như chàm
Mang lửa rọi vào chuồn mất nhá !
Cả bọn xin giảng một thời tham (cứu).
3) Thiền sư Triệu Châu Tòng Thẩm hỏi Thiền sư Nam Tuyền: Có biết người nào đi đâu không? Nam Tuyền đáp: “Đi đến nhà thí chủ ở trước núi làm một con trâu. Tòng Thẩm nói: “Cảm ơn sư chỉ cho biết”. Nam Tuyền bảo: “Đêm rồi canh ba trăng rọi cửa” (rọi cửa sổ: ăn trộm chắc!)
4) Thiền Sư Qui Sơn Linh Hựu dạy chúng tăng: “Lão tăng, một trăm năm sau, xuống nhà thí chủ dưới núi làm một con trâu. Hông bên trái viết năm chữ (mà tiếng Việt lại thành bảy chữ): Ông Thầy Chùa Qui Sơn tên Đó. Bấy giờ, nếu gọi nó là ông thầy chùa Qui Sơn, thì lại là con trâu. Mà gọi con trâu, té ra là ông thầy chùa Qui Sơn tên Đó. Phải gọi là thứ gì mới được? Ngưỡng Sơn bước ra lạy rồi bỏ đi”
Thiền sư Đạo Ngô-Ngộ Chân tụng:
Thủy hồ Qui Sơn trực triệt ki
Phân minh nhân loại hiển u kỳ
Lưỡng biên xuất ngữ phân thân xứ
Dạ điểu đầu lâm hiểu phục phi.
Con trâu, Qui Sơn, thiệt mù tịt
Rõ ràng là người mới là kỳ
Bên này bên kia có chữ hết
Chim đêm về rừng sớm bay đi.
5) Thiền sư Hoàng Bá Hi Vận, một hôm, cùng đi dạo với quan tướng quốc họ Bùi, thấy bác thợ cày cày ruộng, bùn lún sâu, trâu đi không được. Bác đánh nó, quan họ Bùi động lòng trắc ẩn, Sư bảo: “Đét cho đau nữa đi!” Họ Bùi nói: “Ông bạn quý, sao lại nói được như thế?” Sư bảo: “Cái thứ hai chân, cày làm sao được”.
Thiền sư Thủy Am tụng:
Vận sư Bùi tưởng lão bà tâm
Bất cố nê thâm dữ thủy thâm
Thống bỗng độc chùy hành dị loại
Túng giao bì hạ huyết lâm lâm.
Sư Vận, tướng Bùi, tâm bà nội
Chẳng kể bùn sâu hay nước sâu
Gậy đau, chảy độc hành khác loại
Cái nào cũng máu nhuộm da trâu.
6) Đầu tử Đồng Thiền sư, có thầy tăng hỏi: “Con trâu trắng sờ sờ ra đó, như thế nào?” Sư bảo: “Rào rạo”. Thầy tăng lại hỏi: “Nó uống hút cái gì?” Sư bảo: “Ken két”.
Thiền sư Huệ Giác tụng:
Lộ địa bạch ngưu khởi vấn đoan
Tuỳ cơ chả chả xì nha hàn
Bất tri ẩm hám thị hà vật
Nghiết nghiết trực giao thương hải càn.
Trâu trắng sờ sờ bày chuyện kháo
Cứ tùy răng lạnh kêu rào rạo
Chẳng biết uống hút cái thứ gì
Ken két làm cho biển khô ráo.
Thiền sư Thích Tuệ Sỹ
Thích Tuệ Sỹ