nặng và nhẹ là 50%, khả năng phục hồi làm việc lại bình thường khoảng 25%.
Theo y học cổ truyền, TBMMN là một hội chứng trong phạm vi chứng “trúng phong” được mô tả là bệnh nhân đột nhiên chóng mặt, ngã, một nửa người không cử động được, méo mồm, nói ngọng; nếu nặng thì bất tỉnh hôn mê. Bệnh cũng thường xảy ra đột ngột, diễn biến nhanh... nên gọi là “trúng phong” hay “thốt trúng”.
Y học hiện đại cho rằng: TBMMN là các thiếu sót chức năng thần kinh xảy ra đột ngột với các triệu chứng khu trú hơn là lan tỏa, các triệu chứng tồn tại quá 24h hoặc Tu vong trong 24h, loại trừ nguyên nhân sang chấn sọ não (theo Tổ chức Y tế Thế giới).
YHCT chia thành 2 thể: Trúng phong kinh lạc và trúng phong tạng phủ. Trúng phong tạng phủ có thể gặp chứng bế hoặc chứng thoát.
Thường gặp trong co thắt mạch não, nhồi máu não và xuất huyết não mức độ nhẹ: Liệt nửa người không có hôn mê, liệt mặt, thoáng mất ý thức, hoa mắt, chóng mặt, mạch huyền tế sác thuộc âm hư hỏa vượng. Nếu chân tay co quắp, miệng sùi bọt, cử động lưỡi khó khăn, rêu lưỡi trắng dày, mạch phù hoạt hoặc huyền hoạt thuộc chứng phong đàm.
Thường gặp trong xuất huyết não, nhồi máu não ổ lớn, có hôn mê. Chứng bế thể liệt cứng do dương khí thịnh, bệnh ở tại tạng tâm và can, hai tay nắm chặt, co quắp, hàm răng nghiến chặt, thở khò khè, mắt đỏ, người nóng, chất lưỡi vàng, không ra mồ hôi, rêu lưỡi vàng dày, mạch hoạt sác hữu lực. Chứng thoát thể liệt mềm: hôn mê, mồm há, chân tay mềm duỗi, đái dầm dề, ra mồ hôi nhiều, sắc mặt trắng bệch, chân tay lạnh, lưỡi nhạt, mạch tế sác, trầm tế muốn mất.
Sau khi bị trúng phong, bệnh nhân còn lại trúng phong: chủ yếu là bán thân bất toại biểu hiện thượng hạ chi của bán thân bên trái hoặc bên phải tê dại, giảm hoặc mất cử động, giảm cảm giác đau, nóng, lạnh, tay không còn cầm nắm được, chân không đi lại được.
Huyệt ở chân: hoàn khiêu, phong thị, dương lăng tuyền, âm lăng tuyền, huyết hải, túc tam lý, phong long, tam âm giao, giải khê, thái xung, hành gian, bát phong...
Liệu trình điều trị: từ 30-45 lần châm tuỳ theo mức độ bệnh, sau đó có thể nhắc lại một số liệu trình tiếp theo.
Thường dùng các huyệt như giáp tích tương ứng với chi liệt, kiên ngung, thủ tam lý, phong thị, túc tam lý, thừa sơn, dương lăng tuyền, giải khê.
Thưởng sử dụng vitamin B1, B6, B12 liều cao, các Thu*c tăng cường tuần hoàn não, tăng cường dinh dưỡng thần kinh (cerebrolysin, citicolin, gliatilin...) để thủy châm vào một số huyệt.
Biện pháp không thể thiếu khi chữa di chứng trúng phong, đặc biệt đối với tình trạng bán thân bất toại trong giai đoạn di chứng.
Tập luyện là một nội dung rất quan trọng trong chức năng. Tiến hành cho bệnh nhân tập sớm từ thụ động đến chủ động tùy theo tình trạng của bệnh nhân.