Bệnh thai trứng thường lành tính, nhưng trong một số trường hợp có thể dẫn đến các biến chứng đáng sợ như: thai trứng xâm lấn hay ung thư tế bào nuôi.
Bệnh
thai trứng thường lành
tính, nhưng trong một số trường hợp có thể dẫn đến các biến chứng đáng sợ như:
thai trứng xâm lấn hay ung thư tế bào nuôi.
thai trứng là tình trạng bệnh
lý của gai nhau do sự phát triển bất thường lớp tế bào nuôi có trong gai nhau,
biến thành nhiều túi nhỏ giống như chùm nho chứa đầy nước, các túi này không
thông với nhau mà chỉ nối với nhau bằng những sợi nhỏ, lấn át bào thai.
thai trứng xảy ra như thế
nào?
Thông thường, sau khi tinh
trùng kết hợp với noãn sẽ trở thành trứng thụ tinh, phát triển thành thai nhi
và các phần phụ như: nhau và túi ối.
Trong một số trường hợp, tế
bào nuôi phát triển quá nhanh, tổ chức liên kết và các mao mạch của mạch máu
rốn ở gai nhau không phát triển kịp. Gai nhau bị thoái hóa, phù nề tạo thành
các túi chứa dịch dính vào nhau giống như chùm nho và chiếm phần lớn buồng tử
cung, có đường kính 1mm đến vài chục milimét. Hiện tượng này được gọi là thai
trứng. Trứng có thể phát triển thành một khối không có phôi thai (được gọi là
thai trứng toàn phần) hoặc có phôi thai bất thường (
thai trứng bán phần).
Hiện tại, các nhà khoa học
vẫn chưa xác định được nguyên nhân gây ra hiện tượng này. Các yếu tố làm tăng
nguy cơ cho người bệnh như: lớn tuổi, trên 35 tuổi dễ thụ thai bất thường, sinh
nhiều lần, suy dinh dưỡng (chủ yếu là thiếu đạm, thiếu vitamin A), vấn đề miễn
dịch của cơ thể.
Cách xác định thai trứng
Rong huyết là triệu chứng
thường gặp nhất, xảy ra sau khi trễ kinh vài tuần. Huyết *m đ*o, có thể ít hoặc
nhiều, thường là máu bầm đen, loãng, kéo dài. Người bệnh bị nghén nặng, nôn
nhiều và kéo dài, thể trạng mệt mỏi, xanh xao, đôi khi xuất hiện phù. Trong
giai đoạn đầu của thai kỳ, dễ bị chẩn đoán nhầm là dọa sảy. Xuất hiện tình
trạng của tăng huyết áp, đạm niệu. Khoảng một nửa người bệnh có tử cung to ra
nhanh so với tuổi thai; số còn lại có tử cung phát triển bình thường hoặc nhỏ
hơn tuổi thai do thai trứng thoái triển.
Trong giai đoạn giữa thai kỳ,
sờ không thấy phần thai, không nghe tim thai.
Trong trường hợp thai trứng
toàn phần: tình trạng thiếu máu, xuất hiện rõ, đa số là thiếu máu thiếu sắt,
chiếm tỉ lệ 54%. Triệu chứng của tiền sản giật đi kèm và xuất hiện sớm, tỉ lệ
27%. Ngoài ra có thể kèm theo cường giáp. Chiếm tỉ lệ 7%, với các triệu chứng
nhịp tim nhanh, da ẩm, tay run, xét nghiệm FT3 và FT4 tăng.
Siêu âm: cho thấy hình ảnh
bão tuyết trong lòng tử cung, không thấy phần thai. Đây là yếu tố có giá trị
chẩn đoán xác định thai trứng. Đồng thời xét nghiệm betahCG (beta human chorionic
gonadotropin) tăng rất cao, trên 30.000 đơn vị quốc tế.
Biến chứng của thai trứng
Bệnh thai trứng không điều
trị sớm sẽ dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm như mất máu, suy dinh dưỡng, băng
huyết. Ngoài ra, thai trứng còn gây ra nhiều biến chứng ác tính như thai trứng
xâm lấn và ung thư tế bào nuôi (đây là loại ung thư ác tính, có thể gây di căn
toàn thân và tỉ lệ Tu vong rất cao).
Bình thường diễn tiến thai
trứng, trên 80% các trường hợp thai trứng sau khi được điều trị bằng hút nạo sẽ
diễn tiến tốt. Trong khoảng 20% trường hợp còn lại, các nguyên bào nuôi tiếp
tục phát triển và tiết ra hCG dẫn đến biến chứng.
Điều trị thai trứng
Khi người bệnh đã được xác
định thai trứng, việc cần làm trước tiên là lấy khối trứng ra ngoài tử cung
bằng cách nong nạo hay hút nạo. Kỹ thuật: hút nạo thai trứng, kết hợp giúp sự
co hồi tử cung để cầm máu bằng truyền dung dịch mặn hoặc ngọt đẳng trương pha
oxytocin, đồng thời dùng kháng sinh để ngừa nhiễm trùng. Có thể dùng máy hút
dưới áp lực âm để hút nhanh, tránh chảy máu. Nạo hút lại lần 2 sau 2 - 3 ngày.
Gửi tổ chức mô nạo làm giải phẫu bệnh. Phẫu thuật: cắt tử cung toàn phần cả
khối hoặc cắt tử cung toàn phần sau nạo hút trứng thường được áp dụng ở các phụ
nữ không muốn có con nữa hoặc trên 40 tuổi và trường hợp thai trứng xâm lấn làm
thủng tử cung.
Cách theo dõi sau điều trị
thai trứng
Mặc dù đã được xử lý thai
trứng nhưng vẫn cần được theo dõi chặt chẽ để phát hiện và điều trị kịp thời
các biến chứng ác tính. Hai tuần sau hút nạo, người bệnh cần đến bệnh viện để
xét nghiệm định lượng beta hCG. Xét nghiệm này cần được thực hiện hai tuần/lần
trong ba tháng đầu rồi sáu tháng/lần cho đến hết 12 tháng. Tuyệt đối Tr*nh th*i
trong vòng một năm sau hút nạo.
Khi đã bị biến chứng nặng,
người bệnh buộc phải điều trị bằng hóa chất và nặng hơn sẽ phải phẫu thuật cắt
bỏ toàn bộ tử cung. Còn khi đã nặng hơn thì phải điều trị trong một thời gian
khá dài. Vì vậy, người bệnh cần tuyệt đối tuân thủ điều trị theo sự chỉ định
của bác sĩ.
Thời điểm có thể mang thai
trở lại
Thông thường, vẫn phải chờ một năm sau khi nồng độ beta hCG của trở
về mức bình thường, trước khi chuẩn bị mang thai lần nữa. Trường hợp có thai
trước thời điểm này, nồng độ beta hCG sẽ tăng lên và bác sĩ sẽ không thể biết được
liệu mô bất thường có quay trở lại không.
Một điều may mắn cho người
phụ nữ, thai trứng không ảnh hưởng đến khả năng sinh sản hay khả năng có thai,
ngay cả khi người bệnh đã trải qua hóa trị. Không bị tăng nguy cơ thai ch*t
lưu, dị tật bẩm sinh, sinh non, hoặc các biến chứng khác. Và tỉ lệ mắc thai
trứng lần nữa chỉ từ 1 - 2%. Ở lần mang thai tiếp theo, nên đi siêu âm trong ba
tháng đầu tiên của thai kỳ để đảm bảo rằng không có vấn đề gì xảy ra.
BS.CKII. NGUYỄN HỮU THUẬN