Cây thuốc quanh ta hôm nay

Thuốc từ cây ngưu tất

Theo Đông y, ngưu tất tính bình, vào 2 kinh can và thận. Ngưu tất dùng sống: rửa sạch, để ráo nước thái mỏng 1-2mm sấy khô, có tác dụng tán ứ, hoạt huyết

Ngưu tất, tên khác là hoài ngưu tất. Bộ phận dùng làm Thuốc là rễ. Thu hái vào mùa đông khi thân lá đã khô héo. Đào lấy rễ, cắt bỏ phần trên cổ rễ và rễ con, rửa sạch đất cát, đem phơi rồi bó thành từng bó nhỏ, tiếp tục phơi cho tới khi da nhăn nheo, đem lăn rồi xông sinh vài lần, phơi khô, ta được vị ngưu tất có mùi đặc biệt, vị hơi ngọt, màu vàng tro.

Theo nghiên cứu của y học hiện đại, trong rễ ngưu tất có saponin, chất nhầy và một số muối của kali. Chế phẩm từ ngưu tất có tác dụng chống viêm, giảm cholessterol trong máu, hạ huyết áp, giảm đau. Cao ngưu tất có tác dụng cải thiện tốt với bệnh nhân xơ vỡ động mạch...

Theo Đông y, ngưu tất tính bình, vào 2 kinh can và thận. Ngưu tất dùng sống: rửa sạch, để ráo nước thái mỏng 1-2mm sấy khô, có tác dụng tán ứ, hoạt huyết, lợi thấp, chữa tiểu tiện sẻn, cổ họng sưng đau, chấn thương, ứ máu bầm tím, khó đẻ. Ngưu tất dùng chín: tẩm rượu hoặc tẩm muối tùy từng trường hợp, sấy khô, có tác dụng bổ can, ích khí, cường gân cốt, chữa tê thấp, đau mình mẩy, đau lưng, chân tay co quắp.

Liều dùng hàng ngày 6-12g dưới dạng Thuốc sắc hoặc ngâm rượu. Chúng tôi xin giới thiệu những phương Thuốc chữa bệnh từ ngưu tất để bạn đọc tham khảo và áp dụng:

Điều  bạn đọc  cần lưu ý là vị Thuốc ngưu tất trong bài Thuốc là vị Thuốc Bắc thường dùng nhập khẩu từ Trung Quốc, khác với ngưu tất nam (Achyranthes aspera L.) còn gọi là cây cỏ xước. Cả hai loài ngưu tất và cỏ xước đều chữa đau xương khớp, hạ huyết áp, lợi tiểu... Tuy nhiên, ngưu tất tác dụng mạnh hơn. Do đó, liều dùng ngưu tất chỉ cần 6-12g/ngày, còn cỏ xước phải tới 12 - 40g/ngày. Người khí hư, tỳ vị hư hàn, mộng tinh, di tinh, hoạt tinh, phụ nữ mang thai không được dùng.

Vị Thuốc ngưu tất chống viêm, giảm cholessterol, hạ huyết áp, giảm đau.

Thuốc sắc ngưu tất:

Bài 1: ngưu tất 20g, cam thảo 10g. Sắc uống thay trà. Dùng cho người lên sởi có viêm họng.

Bài 2: xuyên ngưu tất 30g, sắc hai nước, bỏ bã, lấy nước 1 trộn lẫn nước 2. Ngày 1 thang chia 2 lần.Dùng cho người xuất huyết dạ con.

Bài 3: ngưu tất 12g, thục địa 12g, xa tiền tử 12g, hoài sơn 12g, trạch tả 8g, đan bì 8g, phục linh 8g, sơn thù 8g, phụ tử chế 8g, nhục quế 4g. Tất cả thái nhỏ, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm 2 lần trong ngày. Dùng trong trường hợp bí tiểu tiện ở người cao tuổi.

Bài 4: ngưu tất (chích rượu) 12g, ích mẫu 16g; hương phụ (tứ chế), đào nhân, uất kim, tạo giác thích (gai bồ kết), mỗi vị 8g. Dùng trong trường hợp bế kinh, khi có kinh đau bụng. Sau kỳ kinh khoảng 7-10 ngày, sắc uống ngày 1 thang. Mỗi thang sắc 2 lần, hợp 2 nước với nhau, chia ra uống 2-3 lần trong ngày, uống trước bữa ăn, 14 ngày là một liệu trình.

Bài 5: ngưu tất, bạch truật, mỗi vị 12g, cỏ nhọ nồi 12g; phục linh, bán hạ (chế), trần bì, hương phụ, mỗi vị 8g. Dùng cho trường hợp rong kinh. Sắc uống ngày một thang. Uống liền 2-3 tuần là một liệu trình.

Bài 6: ngưu tất, phòng phong, tang ký sinh, độc hoạt, tục đoạn, ý dĩ, đương quy, thục địa, bạch thược, đảng sâm, mỗi vị 12g; tần giao 10g; quế chi, xuyên khung, mỗi vị 8g; tế tân, cam thảo mỗi vị 6g. Dùng cho trường hợp viêm đa khớp dạng thấp. Sắc uống ngày một thang, uống trước bữa ăn. Uống liền 2-3 tuần. Nghỉ 1 tuần. Tùy theo tình hình có thể tiếp tục một liệu trình mới.

Thuốc bột ngưu tất: ngưu tất, đại giả thạch, tiên hạc thảo, lượng bằng nhau. Nghiền chung thành bột. Mỗi lần uống 10g, ngày 1-3 lần. Dùng cho người hay chảy máu cam. 10 ngày là 1 liệu trình.

Cháo ngưu tất: thân cây và lá ngưu tất (khô) 20g sắc lấy nước, bỏ bã nấu với 100 g gạo lứt ( cháo loãng), ăn nóng, ngày 2-3 lần. 10 ngày là một liệu trình. Dùng cho người phong hàn tê thấp, đau lưng mỏi gối, các khớp xương không ổn định, viêm đau khớp.

Ngưu tất ngâm rượu:

Rượu ngưu tất địa hoàng: ngưu tất 250g, địa hoàng 250g. Ngâm trong 1.000ml rượu 7 ngày. Uống ngày 2 lần, mỗi lần 20ml.

Có tác dụng tốt cho người bụng dưới đau tụ huyết, thắt lưng đầu gối phù nề, gân cốt vô lực, lạnh buốt các đầu ngón chân.

Rượu ngưu tất đu đủ: Ngưu tất 50g, mộc qua (đu đủ) 50g, rượu trắng 500ml. Ngâm rượu trong 7 ngày, uống ngày 1 lần vào buổi tối trước khi đi ngủ. Dùng cho người bị dính ruột sau khi mổ.

Rượu ngưu tất nhân sâm: Ngưu tất 20g, hoàng kỳ 20g, nhục quế 15g, nhân sâm 20g, xuyên khung 20g, sinh địa 15g, nhục thung dung 25g, ba kích thiên 20g, ngũ vị tử 20g, sơn du nhục 20g, hải phong đằng 10g, ngũ gia bì 25g, chế phụ tử 20g, xuyên tiêu 15g, gừng tươi 25g, phòng phong 25g.

Các vị trên giã nhỏ ngâm với 15 lít rượu trắng, dùng dần, mỗi lần uống 15-20ml.

Dùng cho người bị đau lưng, đau chân, đầu ngón chân, ngón tay lạnh buốt, liệt dương, xuất tinh sớm, đại tiện lỏng, khí hư vô lực.

Rượu ngưu tất đậu đen: ngưu tất 95g, sinh địa hoàng 95g, đậu đen 95g.

Đậu đen rang chín, ngưu tất, sinh địa nghiền nát, trộn đều với đậu đen, hấp chín, lấy vải bọc lại, ngâm với 1,5 lít rượu. Ngày uống 2 lần, trước bữa ăn, mỗi lần 15-30ml.

Dùng cho người can thận bất túc sinh ra đau lưng mỏi gối, chân mềm bất lực các khớp xương chân tay co quắt, miệng khô, họng rát, phong thấp tê đau.

BS. Phạm Minh Dương

Mạng Y Tế
Nguồn: Sức khỏe đời sống (https://suckhoedoisong.vn/thuoc-tu-cay-nguu-tat-n151993.html)
Từ khóa: cây ngưu tất

Chủ đề liên quan:

cây ngưu tất ngưu tất

Tin cùng nội dung

  • Theo Đông Y rễ gối hạc có vị đắng ngọt, tính mát, có tác dụng tiêu sưng, thông huyết. Do có tác dụng này như vị xích thược nên người ta gọi là nam xích thược, do đó thường được sử dụng chữa sưng tấy, đơn bắp chuối hay phong thấp sưng đầu gối và chữa đau bụng, rong kinh. Hạt thường được dùng trị giun đũa, giun kim và sán xơ mít. Liều thông thường 15-20g rễ, dùng riêng tán bột hay sắc uống hoặc ngâm rượu uống.
  • Theo Đông y, Ngưu tất có vị đắng, chua mặn, tính bình; có tác dụng bổ can thận, mạnh gân cốt, phá ứ huyết, tiêu ung độc. Ngưu tất, hoài ngưu tất, cỏ xước hai răng, cỏ sướt hai răng (danh pháp hai phần: Achyranthes bidentata) là một loài thực vật thuộc họ Dền, được trồng ở Ấn Độ, Nepal, Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam.
  • Tôi 53 tuổi, bị tăng huyết áp (THA), sau khi uống Thu*c vài tháng thì huyết áp (HA) của tôi khá ổn định.
  • Hoạt huyết thông kinh, mạnh gân cốt, bổ can thận. Chủ trị: Dùng trị đau lưng gối, mỏi gân xuơng; bế kinh, kinh nguyệt không đều, tăng huyết áp.
  • Hiện ta đang trồng giống ngưu tất di thực của Trung Quốc có rễ to hơn cây cỏ xước mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Có thể tìm loại cỏ xước ở nước ta dùng làm ngưu tất được
  • Ngưu tất có vị đắng, chua mặn, tính bình, có tác dụng bổ can thận, mạnh gân cốt, phá ứ huyết, tiêu ung độc
  • Theo Đông y, ngưu tất vị đắng chua, tính bình; vào kinh can và thận. Dạng sống có tác dụng phá huyết hành ứ, tiêu ung lợi thấp; trị cổ họng sưng đau,
  • Ngưu tất còn có tên là hoài ngưu tất (Achyranthes bidentata Blume). Cây có nguồn gốc từ Trung Quốc, hiện được trồng ở các vùng miền núi, trung du và đồng bằng ở các tỉnh phía Bắc...
  • Ngưu tất, tên khác là hoài ngưu tất. Bộ phận dùng làm Thu*c là rễ ngưu tất phơi khô. Nhiều chế phẩm từ ngưu tất đã được nghiên cứu có tác dụng chống viêm...
  • Theo y học cổ truyền, nam ngưu tất có vị đắng, chua, tính mát, có tác dụng tiêu viêm, lợi tiểu, tác dụng bổ thận, mạnh gân cốt được sử dụng để chữa viêm khớp
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY