Tâm linh hôm nay

Vị Tổ sư Thiền tông đời thứ mười lăm - Tôn giả Ca Na Đề Bà

Tổ Ca Na Đề Bà, người đời gọi Ngài là Bồ tát. Sanh sau Đức Phật nhập Niết bàn 546 năm, ở miền Nam nước Ấn. Cha tên Ca Na Bạc, mẹ là bà Hữu Chung Truyền. Cha mẹ Ngài tu theo pháp môn Tiểu thừa và Trung thừa Phật giáo và thích làm phước thiện, vì vậy Ngài rất uyên thâm Phật học.

Tài khuất phục rắn thần ngàn năm tuổi của Tôn giả Ca Tỳ Ma La

Con đường tu hành đắc đạo của Tôn giả Ca Na Đề Bà 

Nghe Tổ Long Thọ đến vùng Ngài ở, Ngài liền tìm đến yết kiến Tổ. Tổ Long Thọ muốn thử trí thông minh của Ngài đến đâu, nên Tổ sai đồ đệ múc một thau nước đầy để trước lối vào, kế bên là một cây kim. Ngài biết Tổ muốn thử mình câu “Mò kim đáy nước”, nên Ngài lấy cây kim bỏ vào thau nước, đi quanh một vòng rồi nhắm mắt đưa tay vào trong thau nước lấy cây kim ra đưa trình cho Tổ, Tổ khen Ngài: Đúng là ông “Mò kim đáy nước” mà ông cũng mò được thật là giỏi lắm.

Tổ hỏi ông: Ông mò trong nước, tìm được cây kim, vậy cây kim là gì? Ngài trình thưa:

Trong “Bể nước mênh mông”

Có “Viên ngọc rất quý”;

Ai nhận được “Ngọc” xài

Là hết sinh tử ngay.

Ngài chưa biết Thiền tông là gì mà đã nói được vi diệu ấy, nên Tổ hỏi Ngài: Vậy Ngươi muốn theo ta xuất gia học đạo Thiền tông không? Ngài thưa: Nếu được Thầy dạy bảo, con nguyện hết mình nghe và làm theo lời Thật dạy.

Chuyện về Long Thọ tôn giả - Vị tổ dẫn mạch nguồn Thiền tông

Thế là Ngài theo Tổ xuất gia. Ba năm theo học với Tổ, một hôm Ngài cùng Tổ đến đền thờ Thần Bram Mata. Tổ hỏi Ngài: Những tín đồ đến đây, cúng, lễ, lạy để xin cái gì? Ngài trình thưa với Tổ: Những vị ấy đến đây cầu xin là để cầu xin Luân hồi! Tổ hỏi: Sao Ngươi biết? Ngài làm bài kệ như sau để trình Tổ:

Đời người là sự trả vay

Hôm nay xin được để xài cho thân; 

Dù cho vay được trọn phần

Cũng là vay mượn của trần thế gian.

Con nay đã hiểu rõ ràng

Những thứ vật lý là đàng chuyển luân;

Nếu vay mượn được thì mừng

Những thứ Nhân quả chưa từng ai cho.

Ai đâu có của mà cho

Tưởng rằng cầu lạy, Thần cho của mình;

Nguyên tắc vay mượn của mình

Những thứ phước đức của mình trước kia.

Hôm nay mượn trước đem “vìa”

Mượn về xài trước, nợ kia phải tường;

Tiếp sau mình phải bi thương

Vì là vay trả, không đường chạy đâu.

Ai mà tham mới đi cầu

Nhờ Thần giúp đỡ là đầu chuyển luân;

Con hiểu nguyên lý rất mừng

Nhờ con biết được, chưa từng cầu chi.

Tổ vừa nghe Ngài trình 20 câu kệ, Tổ biết Ngài đã hiểu nguyên lý trong vật lý của thế giới này, nên Tổ hỏi: Mấy năm nay Ngươi theo ta học đạo Giải thoát, vậy Ngươi có biết tu như thế nào để Giải thoát không? Ngài trình thưa với Tổ Long Thọ bằng bài kệ 32 câu như sau:

Giải thoát là nói thế gian

Nếu nói Giải thoát, không đàng về quê;

Quê xưa chỉ một đường về

Không theo vật lý là quê của mình.

Thầy dạy con tự nhiên nhìn

Không dính không mắc, mình đừng dính chi;

Thiền tông đặc biệt diệu kỳ

Không dính vật lý không gì theo ta.

Tu thiền đừng muốn về nhà

Thực hiện được vậy, là xa nghiệp trần;

Thanh tịnh vật lý rõ phân

Ai dính vật lý, đường trần phải đi.

Dù cho thực hiện pháp gì

Là của vật lý, cái gì của ta;

Thiền tông Đức Phật dạy ra

Không dính vật chất là ra Luân hồi.

Tu thiền mà đứng hay ngồi

Là tu vật lý, không đời thoát thân;

Muốn được Giải thoát chỉ cần

Chỉ cần thanh tịnh, không cần dụng công.

Tự nhiên vật lý xa dần

Những thứ vật lý, không cần phải xa;

Vật lý là của Ta bà

Nếu tu dẹp bỏ là ta ngu khờ.

Thầy dạy con biết hiện giờ

Chỉ cần thanh tịnh, vượt bờ tử sinh;

Vào trong Bể tánh không sinh

Chính nơi thanh tịnh, là “anh” Niết bàn.

Niết bàn không khổ không nan

Vì không vật lý, an nhàn thảnh thơi;

Hôm nay con ngộ được rồi

Cám ơn Thầy dạy, hết rồi tử sinh.

Tổ Long Thọ biết Ngài đã đạt được “Bí mật Thiền tông” nên có dạy như sau: Dòng chảy của Mạch nguồn Thiền tông, đến đây Ngươi đã nhận được, vậy rằm tháng chín này ta sẽ truyền “Bí mật Thiền tông” lại cho Ngươi, Ngươi sẽ nhận Tổ vị Thiền tông đời thứ Mười Lăm. Vậy, Ngươi chuẩn bị đầy đủ nghi thức, đến ngày đó ta sẽ hành lễ truyền “Bí mật Thiền tông” cho Ngươi. Đúng ngày rằm tháng chín, tại chánh điện Thiền tông chùa Thiền tông Hoa Sơn, buổi lễ truyền “Bí mật Thiền tông” được tiến hành. 

Hành trình chứng quả ngộ thiền của Tôn giả Đà Nan Đề

Chấn hưng Phật giáo nước Ba Liên Phất

Sau khi đắc pháp, Ngài vân du khắp nơi, lần lượt sang nước Ca Tỳ La để giáo hóa.Trong nước nầy có ông  trưởng giả tên Tịnh Đức sinh được hai người con trai, người cả tên La Hầu La Điểm, người thứ tên La Hầu La Đa. Ông hàng ngày chỉ săn sóc vườn tược.

Một ngày nọ, một cây trong vườn nẩy sinh thứ nấm lạ, ông nhổ về ăn thử, thực ngon lành. Song chỉ ông và người con thứ  hằng ngày  đều nhổ được nấm ăn, ngoài ra không ai nhổ được. Ông bảo con thứ: Nấm cây nầy chỉ ta và ngươi được ăn, ắt là việc phi thường. Ước gì có ai thông hiểu giải thích cho việc này. La Hầu La Đa nói kệ:

Thử mộc sinh kỳ nhĩ,

Ngã thực bất khô khao,

Trí giả giải thử nhơn,

Ngã hồi hướng Phật đạo.

Dịch nghĩa: Cây nầy sinh nấm lạ,

Con ăn rất ngon lành,

Người trí giải nhơn nầy,

Con xin theo Phật đạo.

Chợt gặp Bồ Tát Đề Bà đến nhà, cha con ông Tịnh Đức vui mừng đem việc nầy ra hỏi. Ngài dạy: Khi xưa lúc ông hai mươi tuổi thường mời một vị Tỳ kheo về nhà cúng dường.

Vị Tỳ kheo ấy tuy có chút ít giới hạnh mà con mắt pháp chưa sáng, tâm không thấu lý, luống nhận sự  cúng dường  của ông. Song vị Tỳ kheo ấy có chút ít tu hành nên khỏi sa vào đường ác, vẫn phải làm cây sinh nấm nầy để trả nợ cho ông. Xưa khi vị Tỳ kheo ấy đến nhà ông,trong nhà chỉ có ông và người con thứ nầy thành kính cúng dường, còn bao nhiêu người đều không vui. Vì thế, nên nấm hiện nay chỉ hai cha con ông được hưởng.

Ngài lại bảo: Ông nay được bao nhiêu tuổi? Trưởng giả thưa: Tôi được 79 tuổi. Ngài nói kệ:

Nhập đạo bất thông lý,

Phục thân hoàn tín thí,

Nhữ niên bát thập nhất,

Thử mộc diệc vô nhĩ.

Dịch: Vào đạo không thông lý,

Hoàn thân đền tín thí,

Trưởng giả tuổi tám mốt,

Cây nầy không sinh nấm.

Đường tu khổ hạnh của Tôn giả Ma Ha Ca Diếp

Ông trưởng giả nghe nói xong,biết rõ duyên trước càng thêm thán phục, Ông thưa: Tôi già yếu tuy muốn xuất gia e không kham theo thầy. Đứa con thứ của tôi hết lòng mộ đạo, tôi xin cho nó theo làm thị giả cho thầy, mong thầy dung nạp. Ngài hoan hỷ chấp nhận La Hầu La Đa xuất gia và triệu tập các vị thánh tăng đến truyền giới. Ngài du hóa đến nước Ba Liên Phất gặp lúc ngoại đạo hưng thịnh Phật pháp lu mờ.

Ngài đem hết khả năng  chuyển hóa  ngoại đạo trở về quy y Tam Bảo, khiến xứ nầy Phật pháp hưng thịnh lại. Khi già yếu, Ngài gọi La Hầu La Đa đến phó chúc pháp nhãn tạng và dặn dò đừng để đoạn diệt. Kế đó ngài nói kệ:

Bổn đối truyền pháp nhơn,

Vị thuyết giải thoát lý,

Ư pháp thật vô chứng,

Vô chung diệc vô thủy.

Dịch nghĩa:

Xưa đối người truyền pháp,

Vì nói lý  giải thoát,

Nơi pháp thật không chứng,

Không chung cũng không thủy.

Dặn dò xong, Ngài nhập định  ngồi nghiêm chỉnh thị tịch. La Hầu La Đa và đồ chúng xây tháp cúng dường. Ngài là Bồ Tát thứ ba làm nổi bật  giáo lý Đại Thừa. Những tác phẩm Ngài trước thuật: Bách luận, Bách tự luận, Đại trượng phu luận, Đề Bà Bồ Tát phá Lăng Già kinh trung ngoại đạo tiểu thừa tứ tông luận, Đề Bà Bồ Tát thích Lăng Già kinh trung ngoại đạo tiểu thừa Niết bàn luận… Những bộ luận trên nổi tiếng nhất là bộ Bách luận và Đại Trượng Phu luận.

> Xem thêm video "Tìm hiểu về những ngày ăn chay trong năm":

Minh Chính (TH)

Mạng Y Tế
Nguồn: Phật giáo (https://phatgiao.org.vn/vi-to-su-thien-tong-doi-thu-muoi-lam--ton-gia-ca-na-de-ba-d41880.html)

Tin cùng nội dung

  • Phatgiao.org.vn xin giới thiệu tới quý Phật tử truyện thơ Tôn giả Đại Ca Diếp do Tâm Minh Ngô Tằng Giao phát tâm thực hiện:
  • Thiền sư Pháp Loa ra đời với một phát tích kỳ đặc, kết duyên với Phật giáo Việt Nam, kế thừa, phát triển dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, nối nắm mạng mạch Thiền tông nước Việt, mở ra trang sử Phật sáng chói với một Giáo hội trang nghiêm và một nền văn hóa Phật giáo vươn lên đỉnh cao nhất thời bấy giờ.
  • Sau khi thành đạo Đức Phật xuống núi, đi giáo hóa khắp nơi, Đức Phật cũng không quên trở về thành Ca Tỳ La Vệ thuyết pháp cho hàng vương tôn công tử, và đã khuyến hóa được nhiều thân thuộc xuất gia. Trong số 7 vương tử đi xuất gia có A Na Luật là bậc Thiên Nhãn Đệ Nhất.
  • Vị Sa-môn vô địch về pháp tu khắc khổ đầu đà trong Phật giáo là Thánh Tăng Ðại Ca Diếp. Ðại Sa-môn nầy là người duy nhất, trong hàng các cao đồ của Đức Phật, đã tuyệt đối giữ đúng giới luật.
  • Được tôn xưng là đệ tử có tài năng hùng biện giỏi nhất trong số các đệ tử của Phật Thích Ca, cho tới tận ngày nay, những tín đồ cửa Phật vẫn truyền tụng cho nhau nghe về những cuộc tranh luận ly kỳ của tôn giả Ca Chiên Diên trong việc hoằng hóa Phật pháp của ông trên khắp mọi miền Ấn Độ.
  • Tôn giả Mục Kiền Liên không những là vị thần thông đệ nhất, bản tính rất năng động mà còn là một vị hiếu đạo hơn hết. Một hôm nhớ mẹ, tôn giả vận dụng thần thông đi khắp mọi nơi để tìm mẹ.
  • Khi Phật nói kinh Bát Nhã trong số 1.250 vị đại A La Hán nói chung, 10 đại đệ tử nói riêng, người thấu hiểu không trí hơn hết là Tu Bồ Đề, bậc Giải Không Đệ Nhất.
  • Hoằng pháp là một công tác vô cùng khó khăn, vì nó đòi hỏi người thực hiện công tác phải có đầy đủ cả hai yếu tố quan thiết, là “khế lý” và “khế cơ” và cả những đức tính đặc biệt khác nữa, cho nên Tôn giả Phú Lâu Na đã được tôn xưng là người có tài thuyết pháp đứng vào bậc nhất.
  • Khi còn tại thế, trong 45 năm thuyết pháp, Đức Phật để lại 8 vạn 4 ngàn pháp môn, theo Phật hạnh nào cũng đáng kính nể, quý trọng. Trong số các Thánh chúng, Ma Ha Ca Diếp là người dốc lòng giữ gìn phạm hạnh, nên được Phật và Thánh chúng tôn xưng là bậc “Đầu đà đệ nhất”.
  • Câu chuyện Phật gia: Đối mặt với sinh tử, con người mới nhận ra mọi thứ trên đời này đều là hư vô
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY