Tiến sỹ Đỗ Tuấn Đạt, Chủ tịch Công ty TNHH MTV vaccine và Sinh phẩm số 1 (Vabiotech), Bộ Y tế, cho biết kế hoạch về Dự án nghiên cứu, phát triển vaccine chống lại Covid-19 trên giá thể baculovirus ở quy mô phòng thí nghiệm, sau khi nhận tài trợ 8 tỷ đồng từ Quỹ Đổi mới sáng tạo VinIF (Tập đoàn Vingroup).
Tiến sỹ Đỗ Tuấn Đạt dự kiến 12 tháng nữa sẽ có kết quả nghiên cứu vaccine phòng Covid-19. |
- Đã có ít nhất 3 công ty được Liên minh sáng kiến đối phó với dịch bệnh (CEPI) tài trợ để phát triển vaccine phòng Covid-19. Họ cũng tuyên bố có thể thử nghiệm trên động vật trong vài tháng tới. Công nghệ nghiên cứu mà Công ty sử dụng có gì khác biệt?
- 2 trong số 3 dự án mà CEPI tài trợ sử dụng công nghệ tổng hợp gene, dựa trên giải mã gene Covid-19 của các nhà khoa học Trung Quốc nên có thể đưa ra thử nghiệm trên động vật khá nhanh. Nhưng giai đoạn thử nghiệm và đánh giá trên người lại mất nhiều thời gian hơn và cũng không biết đến bao giờ mới thương mại hóa được.
Trên thế giới đến nay cũng chưa từng có vaccine nào thương mại hóa được theo các công nghệ này. Các nhà khoa học cũng cảnh báo về nhược điểm của công nghệ này là không tạo được đáp ứng miễn dịch cao.
Còn loại vaccine mà chúng tôi hướng đến là loại sử dụng protein. Công nghệ này tuy khó khăn ở bước đầu để tạo ra protein đáp ứng miễn dịch nhưng các bước sau thì sẽ đi nhanh hơn so với công nghệ tổng hợp gene.
Việc này giúp rút ngắn thời gian phát triển và sản xuất vaccine, dễ nâng quy mô sản xuất và giảm giá thành, đáp ứng tốt nhu cầu về vaccine trong trường hợp khẩn cấp khi xuất hiện các tác nhân gây bệnh mới, nguy hiểm như Covid-19. Tuy nhiên, do yêu cầu nghiêm ngặt trong quy trình phát triển vaccine nên dù nhanh nhất và thuận lợi nhất thì cũng phải mất 12 tháng mới có kết quả.
- Các tập đoàn hàng đầu trong ngành công nghiệp vaccine như Pfizer, GlaxoSmithKline (GSK) hay Sanofi đến nay vẫn chưa đề cập ý định sản xuất vaccine phòng Covid-19, việc Công ty thực hiện dự án nghiên cứu này liệu có quá tham vọng?
- Việc nghiên cứu, sản xuất vaccine trước hết giúp chúng ta chủ động về nguồn cung, nhất là để phòng ngừa hay chấm dứt một cuộc khủng hoảng sức khỏe cộng đồng đặc biệt nghiêm trọng như Covid-19. Thứ hai, mặc dù không ai mong muốn ở góc độ khoa học, điều kiện dịch bệnh là cơ hội giúp khẳng định năng lực nghiên cứu, vị thế của khoa học nói chung và y tế dự phòng của Việt Nam nói riêng.
Chúng ta có thể làm được, làm tốt thậm chí đi đầu trong việc đóng góp cho thế giới. Bằng chứng là Việt Nam hiện là 1 trong 37 nước trên thế giới đạt Tiêu chuẩn quốc gia về sản xuất vaccine, tức vaccine sản xuất ra có thể xuất khẩu.
- Nếu rủi ro thì sao, bởi phát triển vaccine vốn rất tốn kém và rủi ro mà ngay cả các hãng dược phẩm hàng đầu thế giới cũng phải thận trọng?
- Để tạo ra được một loại vaccine mới cần phải trải qua rất nhiều giai đoạn nhằm đảm bảo tính an toàn cũng như hiệu quả hoạt động của vaccine. Nhưng không phải khi nào các dự án nghiên cứu cũng thành công. Có những loại vaccine mà cả thế giới đều muốn có, như vaccine phòng HIV, nhưng sau nhiều chục năm vẫn chưa thể tạo ra.
Bên cạnh đó là những nguy cơ như khi đi vào sản xuất thương mại thì dịch bệnh đã qua hoặc vaccine bị rút phép, ngừng lưu hành vì tác dụng phụ... Lúc đó, doanh nghiệp sẽ bị thiệt hại rất lớn. Trong khi, kinh phí để có được một loại vaccine là vô cùng lớn. Đơn cử, phải mất cả triệu USD chỉ riêng cho khâu thử nghiệm trên người. Vì vậy, ngay cả các hãng dược lớn họ không phải lúc nào cũng sẵn sàng tham gia cuộc chơi.
Rủi ro và tốn kém là thế, song chúng tôi cho rằng nếu không bước đi đầu tiên thì sẽ không bao giờ đến đích cả. Việc gì cũng vậy luôn cần có người tiên phong.
Thử nghiệm vaccine trên chuột tại Vabiotech. Ảnh: Đinh Tuấn. |
- Trong số rất nhiều chủng coronavirus có khả năng lây nhiễm ở người, đến nay mới chỉ có 3 chủng được đặt tên riêng vì dịch bệnh và hậu quả quy mô lớn mà chúng gây ra. Đó là SARS-CoV gây ra dịch năm 2003, MERS-CoV gây ra dịch năm 2012 và lần này là Covid-19.
Cả 2 đại dịch lần trước, đáng tiếc là thế giới đều chưa có vaccine nào được thương mại hóa. Bởi thế lần này nếu sản xuất thương mại được vaccine phòng Covid-19 thì sẽ là một bước tiến rất lớn.
Chúng ta không thể dự báo được trong tương lai có thể có thêm chủng coronavirus nào mới xuất hiện và gây đại dịch ở người. Nếu tình huống xấu xảy ra, khi đã có trong tay công nghệ vaccine rồi, lúc đó chỉ cần "lắp ráp" phần gene của chủng virus mới vào là rất nhanh sẽ có vaccine mới. Nói cách khác, lần này nếu thành công thì sẽ là nền tảng để phát triển các vaccine phòng đại dịch sau này chứ không chỉ riêng phòng coronavirus.
- Trên thực tế nhiều đề tài đã phải trả lại tiền khi không thành công, điều này gây áp lực lớn cho việc nghiên cứu khoa học. May mắn là với đề tài lần này, chúng tôi được Quỹ VinIF của tập đoàn Vingroup tài trợ. Điều đáng nói, chúng tôi không chịu bất kỳ ràng buộc gì từ phía Quỹ VinIF. Tất nhiên, khi đã triển khai, cả hai bên đều mong muốn đề tài sẽ thành công nhưng quan trọng hơn cả là chúng tôi đều có chung mong muốn tạo ra một sản phẩm vaccine cụ thể phục vụ cộng đồng.
Ở khía cạnh này, tôi nhìn thấy sự tương đồng của Quỹ VinIF và Quỹ Bill and Melinda Gates của vợ chồng tỷ phú người Mỹ chuyên tài trợ cho các chương trình, dự án với mục đích nâng cao chất lượng chăm sóc y tế và giảm đói nghèo trên toàn cầu. Chúng tôi hy vọng rằng, thời gian tới sẽ có thêm nhiều doanh nghiệp như Vingroup, sẵn sàng chung tay cùng Nhà nước và các nhà khoa học trong các hoạt động nghiên cứu vì cộng đồng, an sinh xã hội.