Tâm linh hôm nay

Bảy yếu tố khiến Tăng đoàn hưng thịnh

Nếp sống phạm hạnh của Tăng đoàn Phật giáo luôn tỏa sáng rực rỡ suốt hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, giờ đây vẫn chưa phải muộn màng để chúng ta thực hiện nếp sống ấy hầu xây dựng một tập thể xuất gia vững mạnh

DẪN NHẬP

1. Lý do chọn đề tài:

Âm hưởng của cung đàn có thể dư ba mãi trong lòng thính giả bởi người nghệ sĩ tài ba. Tương tự, Phật giáo có thể trường tồn cùng lịch sử chính do Tăng già hoằng hóa.

Ngay từ những ngày tháng đầu tiên sau khi chứng ngộ, Đức Thế Tôn đã thiết lập Tăng đoàn, mở đầu bằng sự quy ngưỡng Phật pháp của năm anh em tôn giả Konỉdỉanõnõa (Kiều Trần Như). Nhóm bạn đồng tu khổ hạnh này đã trở thành những thành viên đầu tiên của Tăng đoàn Phật giáo. Từ đó Tăng đoàn phát triển dần thành một hội chúng đông đảo. Khoảng mấy năm sau, Thế Tôn chấp thuận việc nữ giới xuất gia và giao cho Tỳ kheo Ni Mahàpajàpati Gotamì trông coi hội chúng Ni giới. Có thể nói, một trong những đóng góp lớn lao nhất của đức Phật là việc thành lập Tăng đoàn. Sự xuất hiện của Tăng đoàn Phật giáo gây tiếng vang rất lớn trong xã hội, làm thay đổi hệ thống tư tưởng triết học Ấn Độ đương thời, mở ra một cái nhìn mới mẻ cho nhân loại về con người và cuộc đời. Sự xuất hiện của mọi giai tầng xã hội trong Tăng đoàn Phật giáo đồng nghĩa với việc Đức Thế Tôn thực hiện một cuộc cách mạng xã hội: xóa bỏ quan niệm phân biệt giai cấp và giới tính, quan niệm hẹp hòi sai lầm đã ngự trị lâu đời trong xã hội Ấn Độ khiến con người đau khổ không lối thoát.

Về mặt giáo hội, Tăng già là rường cột của Phật pháp. Vì thế, Đức Thế Tôn đặc biệt chú trọng đến việc hoàn thiện từng cá nhân trong Tăng đoàn. Ngài sẽ chưa vào Niết-bàn khi chúng Tỳ kheo và Tỳ kheo Ni chưa thành tựu Giới-Định-Tuệ, chưa đủ khả năng truyền bá chánh pháp ở đời. Đó là lời Thế Tôn tuyên bố với Ác ma. [1,601] Điều này nói lên rằng, Đức Thế Tôn đã xác nhận Tăng đoàn là những người thay thế Ngài nối truyền ngọn đèn Chánh pháp ở thế gian. Hẳn nhiên, đó là Tăng đoàn thanh tịnh gồm những thành viên đã và đang nỗ lực trên con đường phạm hạnh. Chỉ có sự hưng thịnh của Tăng đoàn thì Phật giáo mới thăng hoa theo chiều lịch sử. Sự tồn tại của Tăng đoàn là sự tồn tại của Chánh pháp.

Sự phát triển của Tăng đoàn là mạch nước ngầm ngấm sâu vào lòng đất để nuôi sống vạn vật cỏ cây. Điều này cũng có nghĩa là nếp sống Giới-Định-Tuệ của những thành viên trong Tăng đoàn đã thực sự len lỏi trong từng nhịp sống của con người và xã hội. Lịch sử đã chứng minh điều ấy. Hạnh phúc thay khi được dự vào hàng ngũ của Tăng đoàn. Người viết thực sự hạnh phúc khi nghĩ về điều này và luôn tự hỏi làm thế nào để xứng đáng được nương tựa vào ba ngôi báu? Có lẽ, nỗ lực tự thân là chính. Thế nhưng, cuộc sống là dòng chảy với muôn mối duyên sinh nên không thể có một cá nhân nào tồn tại độc lập mà không liên hệ với cộng đồng. Vì thế, mặc dù con đường giải thoát là phải tự mình cất bước – những bước đi của tâm linh âm thầm, đơn độc… nhưng chúng ta luôn có mối quan hệ mật thiết với Tăng đoàn. Sinh hoạt với Tăng đoàn là nét nổi bật của vị tỳ kheo đệ tử Phật. Làm sao để Tăng đoàn hưng thịnh, luôn luôn là chỗ dựa tinh thần cho mọi người, mọi giới, cũng như lòng mong mỏi thiết tha Chánh pháp được trường tồn, người viết chọn đề tài “Bảy yếu tố khiến Tăng đoàn hưng thịnh” để thực hiện tiểu luận này.

2. Giới hạn đề tài:

Đề tài nói về bảy yếu tố khiến Tăng đoàn hưng thịnh nên giới hạn của nó đã khá rõ ràng. Vì vậy, ngoài chương dẫn khởi phát họa đôi nét về sự hình thành và một vài đặc điểm của Tăng đoàn, toàn bộ các phần khác của tiểu luận sẽ tập trung xem xét và thảo luận về bảy yếu tố căn bản của chủ đề.

Trong bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Thế Tôn đã đưa ra rất nhiều yếu tố để xây dựng Tăng đoàn hưng thịnh. Những yếu tố ấy được ghi lại bàn bạc trong Luật tạng và Kinh tạng Pàli, nhưng tựu trung không ngoài việc phát huy Giới-Định-Tuệ. Bảy yếu tố được nói đến trong kinh Đại bát Niết Bàn, Trường bộ, gồm: 1. có Tín tâm, 2. có Tàm, 3. có Quý, 4. Đa văn, 5. Tinh tấn, 6. Chánh niệm, 7. Trí tuệ có thể được xem là những yếu tố căn bản cho sự phát huy sức mạnh của Tăng đoàn mà người viết sẽ trình bày trong tiểu luận này.

3.Phương pháp nghiên cứu:

Thiết nghĩ, vấn đề này đối với những nhà học giả nghiên cứu Phật học thì không còn mới mẻ nữa. Thế nhưng, nó cũng sẽ không bao giờ cũ đối với những hành giả đang tu tập như chúng ta. Bởi cho đến bao lâu, chúng ta còn chưa thể nhập được nếp sống thanh tịnh của Tăng đoàn thì vấn đề này luôn là đề tài còn phải quan tâm.

Trong khi thực hiện đề tài này, người viết dùng phương pháp phân tích tổng hợp và chứng minh để trình bày một vài khía cạnh nhỏ về những yếu tố xây dựng con người của tập thể phạm hạnh, đồng thời nêu lên những tính chất và đặc điểm nổi bật của Tăng già. Ở đây, không liên hệ sâu rộng đến cơ cấu tổ chức mang tính hành chánh và cũng không lạm bàn đến đường hướng phát triển gồm nhiều lĩnh vực của sinh hoạt Tăng đoàn.

Chánh tinh tấn nằm trong nhóm định của Bát chánh đạo chia theo Giới- Định –Tuệ. Nó vận hành đồng thời với chánh niệm và chánh định. Không có chánh tinh tấn thực khó có thể vượt qua được các triền cái ngăn che tiến bộ tâm linh. Chánh tinh tấn loại bỏ các tư duy ác và không lành mạnh tác động như một rào cản đối với sự định tâm, đồng thời thúc đẫy và duy trì những tâm sở tốt đẹp trợ giúp cho sự phát triển tâm định. Khi ngồi thiền, nhiều chướng ngại vây quanh như lười biếng, hôn trầm dã dượi là lúc ta áp dụng chánh tinh tấn, nếu như:

Khi cần không nỗ lực,

Dù trẻ khỏe nhưng lười

Buông thả tâm thụ động

Tụê đâu mà thấy đạo.

[PC.280]

Tuy nhiên, thanh lọc chuyển hóa tâm không phải việc dễ thành công trong một sớm một chiều. Nó cần có thời gian và phải thực hành thường xuyên. Ví như, người lực sĩ muốn cơ thể cường tráng phải bỏ nhiều thì giờ luyện tập theo chương trình nhất định. Cũng vậy, công việc tu tâm đòi hỏi cố gắng liên tục, đều đặn và kiên nhẫn. Nhưng khi thực hành, hành giả không nên quá căng thẳng, hãy để mọi việc tự nhiên, hãy ghi nhận tư tưởng mỗi khi nó phát sanh rồi để nó trôi qua. Hành giả càng cố ép, muốn gạt bỏ tư tưởng ác thì sẽ càng vướng mắc vào nó hơn. Như trường hợp giấc ngủ, ta càng cố ép giấc ngủ, càng khó ngủ hơn. Cho nên, ta không cần gắng sức để ngủ, giấc ngủ sẽ đến một cách tự nhiên và chúng ta chỉ thư giản những căng thẳng là đủ.

Tự hành hạ mình là một trong những cực đoan mà đức Phật dạy người muốn hành thiền phải tránh. Ngài dạy nên đi theo con đường trung đạo: không buông trôi, không căng thẳng. Trong việc thực hành chánh tinh tấn cũng vậy, hành giả phải theo pháp trung dung không để rơi vào một cực đoan nào cả.

Ở đây, cần lưu ý một điều, tinh tấn không phải chỉ áp dụng để kiểm soát tâm trong lúc ngồi thiền, mà trong sinh hoạt hàng ngày, hành giả nên cố gắng để ý kiểm soát tư tưởng lời nói, mọi hành động và cách cư xử của mình, tránh xa tam độc tham, sân, si…. Đó là cố gắng chân chính. Hơn nữa, để chế ngự tư duy tham lam, sân hận, ganh tỵ và hàng loạt những tư tưởng ác khác mà con người phải đối mặt, hành giả cần phải có nghị lực, siêng năng và tỉnh giác để vượt qua. Cho nên, tham thiền hay tu tập đều là sự trợ lực lớn lao giúp chúng ta điềm tĩnh khi đối diện với cuộc sống. Đồng thời, với sự nỗ lực không ngừng, hành giả cảm thấy mạnh mẽ hơn và cảm nhận được những niềm vui trong nội tâm, vì biết rằng mình đã dốc sức lực vào việc tìm kiếm giác ngộ giải thoát, không có gì so sánh được với chúng trong đời này. Tất cả những thứ khác chỉ vì mục đích sinh tồn, dầu có cần thiết nhưng không đem lại niềm vui chân thật.

Qua sự trình bày trên cho thấy, chánh tinh tấn luôn có mặt trong từng bước đi của ta. Dù tu tập pháp môn nào, hành giả cũng phải nỗ lực không ngừng mới có thể thành tựu viên mãn. Cũng như nhiều giọt nước sẽ làm đầy hồ, sự nỗ lực của hành giả cũng giống như những giọt nước kia, rất nhỏ nhoi nhưng mỗi ngày lại hơn hôm qua một ít, dần dần hồ nước sẽ đầy. Sẽ có ngày với sự nỗ lực cuối cùng, hành giả hoàn toàn buông bỏ các ảo tưởng về ngã. Tâm trở nên nhẹ nhàng đối với tất cả các pháp. Cho nên, mỗi chúng ta phải nỗ lực tinh cần trong giáo pháp thì hội chúng sẽ có nhiều sinh lực, sẽ hướng đến sự hòa hợp và thanh tịnh.

2.6. Chánh niệm ( Sammasati):

Chánh niệm là con đường đi vào thực tại. Chứng ngộ của Phật giáo là chứng ngộ thực tại, nhìn thực tại đúng như thực tại. Cái thực tại ấy, con người chỉ tự mình cảm nhận và sống với nó, chứ không thể diễn đạt thành lời. Bởi “thực tại vô ngôn” và vì thế, ngôn ngữ hữu hạn không thể diễn đạt chân lý vô cùng. Đây là nếp sống của thiền định giúp con người ra khỏi ảo tưởng của quá khứ, xa lìa mơ mộng đến tương lai, trở về với con người hiện tại của chính mình. Chỉ có sống trong hiện tại, hành giả mới hiểu rõ cái gọi là con người này mà thực ra chỉ là danh pháp và sắc pháp. Hay nói cách khác, đó là một quá trình vật lý và tâm lý hòa quyện vào nhau, chúng không có cái ta thực thể. Từ đó, hành giả có thái độ sống nhẹ nhàng buông xả, không bị đè nặng bởi những ảo tưởng về cái ta hữu hạn này.

Chánh niệm là các niệm tưởng đoạn trừ tà kiến, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, đạt được nhờ trú chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp gọi là chánh niệm. [4]

Sati ( niệm) xuất phát từ ngữ căn Sar nghĩa là nhớ đến. Đây không phải là trí nhớ mà chỉ là sự giác tỉnh, nhận thức rõ ràng những hành vi động niệm của mình. Trong Bát chánh đạo, Sati có danh từ Sammà đi kèm theo có nghĩa là đúng. Sammà-sati là chánh niệm hoặc có sự chú tâm hay biết chân chánh. Tuy nhiên, chánh niệm không phải là vấn đề “làm một điều gì” mà thực ra là “không làm”, không suy tư, không xét đoán, không liên tưởng, không sắp xếp kế hoạch, không tưởng tượng, không ước muốn, chỉ có sự ghi nhận quan sát, chú tâm nhìn vào đối tượng, ghi nhận rồi để nó trôi qua một cách tự nhiên không diễn dịch.

Chánh niệm được xếp vào nhóm định của Bát chánh đạo gồm Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định. Ba chi này như ba tao của một sợi dây, chúng đan xoắn vào nhau và tác động qua lại lẫn nhau. Tuy nhiên, Chánh niệm được coi là tao mạnh nhất, vì nó đóng vai trò chủ chốt trong sự thâu thập cả an tịnh lẫn trí tuệ. Chánh niệm là một chức năng của tâm, do đó, nó là một tâm sở. Không có tâm sở này, hành giả không thể nhận thức được các đối tượng giác quan, không thể ý thức trọn vẹn về hành vi cư xử của mình. Chánh niệm hướng dẫn người thực hành trên con đường đi đến thanh tịnh và giải thoát.

Có bốn loại niệm chân chánh: Niệm thân, niệm thọ, niệm tâm và niệm pháp.

Niệm thân là chánh niệm về các hoạt động của thân, bao gồm sự ý thức về hơi thở ra vào, về các tư thế của thân, về cách hình thành và sự tan rã của thân.

Chánh niệm về hơi thở ra vào là sự ý thức trọn vẹn về sự chuyển động của hơi thở và bản thân của hơi thở. Hơi thở ra, hơi thở vào ngắn, dài hay trung bình hành giả đều biết rõ. Đó là cách thiết lập chánh niệm trong từng sát na giữa hơi thở với thân thể, để thấy rõ tính chất vô thường mong manh của sự sống và để tâm không bám víu và chấp thủ.

Sự quán sát chánh niệm về các tư thế của thân như đi, đứng, nằm, ngồi… là phương pháp quan trọng để làm chủ chúng, như nắm gọn một vật thể trong lòng bàn tay, và nhất là để có các hành vi và ứng xử tốt đẹp với người khác. Đồng thời, những hành vi cử chỉ như nói, nhìn, ăn, uống, nếm, ngữi hay đáp lại các tiếng gọi của tự nhiên… cần phải được quán chiếu một cách có chánh niệm.

Ngoài ra, quán niệm về thân biết rõ thân này là sự tổng hòa của tứ đại: chất rắn, chất lỏng, nhiệt lượng, chất lưu động - không khí. Mỗi yếu tố này gồm hai cấu phần: trong và ngoài, không có cái nào có thể được xem là “ cái này là tôi”, “cái này là bản ngã của tôi”. Thái độ chân chính là không chấp ngã: “cái này không phải là tôi”, “cái này không phải là bản ngã của tôi”. Như vậy, thực hành chánh niệm về thân sẽ chuyển hóa cái nhìn sai lầm của chúng ta về con người năm uẩn này.

Niệm thọ là chánh niệm về các cảm thọ, chúng thuộc cảm thọ vui, buồn, hay không vui không buồn hành giả đều biết rõ. Nhờ sự chánh niệm về chúng chỉ như là các cảm giác đơn thuần, hành giả giải thoát khỏi chấp mắc, hay tham dục đối với các cảm thọ vui, dễ chịu, hay sự xua đuổi đối với các cảm thọ khổ hay khó chịu, hoặc trạng thái mê mờ trước những cảm thọ không vui không buồn. Đồng thời, nhờ sự thực hành chánh niệm, hành giả không vướng mắc vào thế giới kinh nghiệm giác quan cũng như các phản ứng cảm xúc của chúng.

Niệm tâm là sự chánh niệm về tâm. Tâm có tham, sân, si hay vô tham, vô sân, vô si hành giả đều biết rõ. Nói chung, tâm ở trạng thái nào tập trung hay tản mạn, cao thượng hay hèn hạ, giải thoát hay trói buộc …hành giả đều biết rõ và sống tự do không vướng bận bất cứ vật gì ở đời.

Niệm pháp là sự chánh niệm về các ý niệm hay ý tưởng trong tâm, là sự nhận thức về tâm trong mối liên hệ với sự vắng mặt của năm triền cái (tham, sân, hôn trầm, trạo hối và nghi), sự xuất xuất hiện và sự hoại diệt của chúng. Hành giả cũng chánh niệm biết rõ khi sáu căn tiếp xúc sáu trần, biết rõ về các yếu tố đưa đến giác ngộ (Thất giác chi). Cuối cùng, hành giả chánh niệm về bốn chân lý cao thượng. Đức Thế Tôn dạy, Tứ niệm xứ này được tu tập, được làm cho sung mãn thì diệu pháp được tồn tại lâu dài.

Nhờ tu tập chánh niệm, hành giả luôn sống trong hiện tại, hoàn toàn loại bỏ các khuynh hướng của chủ nghĩa quá khứ và tương lai. Suy tưởng về quá khứ sẽ dẫn đến chủ nghĩa định mệnh, trong khi đó, tùy thuộc vào tương lai sẽ dẫn đến thái độ tham ái tái hiện hữu, nguyên nhân của sanh tử trong tương lai. Chánh niệm do đó trở nên vô cùng quan trọng cho đời sống đạo đức của nhân loại. Nó là cách sống tốt nhất để dung hòa các phản ứng tình cảm trước những tiếp xúc với thế giới nội tại và ngoại tại, trước các cảm giác và những ý niệm, trước các vận hành của tâm thức, trước tiến trình nhận thức phân biệt và trước hành vi đạo đức, để giúp con người giải thoát khỏi các vướng mắc và chấp thủ. Vì thế, chánh niệm được xem là con đường duy nhất dẫn đến sự thanh tịnh của chúng sanh, vượt thoát sợ hãi và lo âu, chấm dứt khỏi đau khổ và chứng đạt hạnh phúc chân thật (Nibbàna).

Nói một cách dễ hiểu và gần gũi hơn, tu tập chánh niệm hay Tứ niệm xứ là nhằm bảo vệ chính mình và bảo vệ người khác, đem lại hạnh phúc cho mọi người. Ở đây, kham nhẫn, vô hại, lòng từ và lòng bi là những đức hạnh qua đó ta đem lại sự bảo vệ và an ổn cho người khác. Những đức hạnh này không thể tu tập mà không có chánh niệm . Điều này nói lên rằng, người sống trong chánh niệm là người có tâm vị tha, luôn kiểm soát thân, khẩu, ý của mình để không làm tổn hại đến chúng sanh . Do vậy khi bảo vệ thân tâm, người ấy đang bảo vệ những người xung quanh, vì không để cho ai lo lắng hay khổ não về những tham , sân, si… bất chợt của mình. Chính vì thế, mỗi chúng ta phải tinh tấn trong chánh niệm hay tu tập Tứ niệm xứ để bảo vệ mình và đem lại an vui mọi người.

Chánh niệm thực sự là nếp sống cao thượng đầy trí tuệ. Sống có chánh niệm tỉnh giác và sống ngay với hiện tại là tinh thần thiết thực nhất . Than thở nuối tiếc quá khứ, hay mơ ước tương lai chỉ làm cho tâm lý rối loạn, phiền muộn, khổ đau, héo mòn, và đánh mất giây phút hiện taị sống động, mới mẻ đầy sáng tạo này. Đức Thế Tôn dạy:

“Không than việc đã qua,

Không mong việc sắp tới,

Sống ngay với hiện tại,

Do vậy sắc thù diệu.

Do mong việc sắp tới,

Do than việc đã qua,

Nên kẻ ngu héo mòn,

Như lau xanh lìa cành”. [7,18]

“Quá khứ không truy tìm,

Tương lai không ước vọng,

Quá khứ đã đoạn tận,

Tương lai lại chưa đến,

Chỉ có pháp hiện tại,

Tuệ quán chính ở đây…” [4,442]

Triết lý (kiến thức) thì luôn nói về (talk about) hay nghĩ về (think of), còn giáo pháp của Phật thì phải sống với (live with), sống với hiện tại, sống với con đường dập tắt khổ đau dẫn đến chân hạnh phúc .

Do vậy, hành giả phải luôn chánh niệm trong thiền quán, để bắt đầu mỗi ngày hay mỗi phút giây, chúng ta như vừa được tái sanh, tươi trẻ, sáng suốt, không lỗi lầm. Quá khứ đã qua rồi không trở lại, nếu chúng ta đã lầm lỗi trong quá khứ, thì hãy học từ kinh nghiệm đó mà không tái phạm, có lẽ, đó là sự hồi tưởng đáng làm nhất.

2.7. Trí tuệ (panõnõà):

Panõnõà (Trí tuệ) xuất phát từ ngữ căn “pa”, nghĩa là chân chính, đúng+ “nà” nghĩa là hiểu biết. Panõnõà là hiểu biết chân chánh, biết đúng như thật sự hiện hữu của các pháp, tức nhìn thấy sự vật dưới ánh sáng của Anicca (Vô thường), Dukkha (Khổ) và Anttà (Vô ngã).

Trí tuệ là yếu tố quan trọng nhất không chỉ về phương diện nhận thức mà còn là nguyên lý hướng dẫn đời sống đạo đức và tâm linh. Do vậy, nó là yếu tố tiên phong, dấu hiệu đi đầu trong các động cơ thiện, cũng giống như mặt trời xuất hiện báo hiệu cho bình minh. Trí tuệ sẽ hướng dẫn hành giả sống đời chân chánh về tư duy, nói năng, hành động, nghề nghiệp, nỗ lực, chánh niệm và thiền định. [5,516] Nói khác đi, sự hiện diện của trí tuệ sẽ kéo theo sự hiện diện của bảy cái chân chính còn lại. Cuộc sống của trí tuệ luôn luôn phủ trùm bởi sự an ổn tuyệt đối, vắng mặt tất cả khổ đau, dẫn tới đời sống Thánh và xứng đáng được đời tôn trọng. [5-I,340]

Từ góc độ đạo đức, Trí tuệ được ẩn dụ với người có hai mắt (tầm nhìn) toàn hảo, có thể nhìn thấy rõ và phân biệt thiện ác, trắng đen, đúng sai, lợi và bất lợi. [5-I,129] Như vậy, trí tuệ là tiêu chỉ nhận thức của sự đánh giá đạo đức. Ở đây, sự đánh giá sự vật bằng trí tuệ một cách phù hợp với bản chất giá trị của chúng.

Quan niệm chân chánh được hiểu dưới hai mức độ, thế gian và xuất thế gian. Quan niệm chân chánh thuộc thế gian là tuệ tri về kết quả đạo đức của bố thí, rộng lượng, cúng dường, hi sinh, cũng như kết quả đạo đức của những hành động có chủ ý trong đời này và đời sau. Nó còn là sự nhận thức về giá trị đạo đức của đời sống hiếu kính cha mẹ, tôn ttrọng sư trưởng và các bậc đạo cao đức trọng. Quan điểm chân chánh thuộc thế gian chủ yếu giới hạn trong việc thu thập công đức cho đời sống tốt lành ở kiếp sau. Quan điểm chân chánh xuất thế ngoài các quan điểm nêu trên còn bao gồm sự tuệ tri về bốn chân lý cao thượng, đánh giá cao về giá trị của trí tuệ, các tuệ căn quan trọng khác và nói chung năng lực của tuệ giác.

Tất cả những hành vi của người có trí tuệ, ngay cả sự chủ ý nguyện vọng, ước muốn và các giải pháp của vị ấy đều dẫn đến an lạc, hạnh phúc cho mình và cho người, ở đời này và đời sau.

Về phương diện nhận thức, trí tuệ hiểu rõ bốn chân lý. Đó là kiến thức về thực tại khổ, các nguyên nhân dẫn đến thực tại khổ, trạng thái chấm dứt hoàn toàn khổ đau và con đường thoát khổ. Đồng thời, trí tuệ biết rõ về bản chất, nguồn gốc, sự chấm dứt và con đường chấm dứt chấp thủ năm uẩn, cũng như mười hai móc xích duyên khởi.

Ở đây, sự hiểu biết về Tứ thánh đế hay sự hiểu biết về lý nhân duyên… không phải đơn thuần là sự hiểu biết qua kinh điển mà là sự hiểu biết có khả năng chuyển đổi từng sự kiện có tính lý thuyết trở thành những sự kiện thực tế của bản thân. Hay nói cách khác, trí tuệ thay đổi sự hiểu biết từ vay mượn trong sách vở thành kinh nghiệm sống thực sự. Và muốn được như thế, chúng ta phải qua quá trình trau giồi giới đức và đặc biệt là trau giồi phát triển định tâm tu tập thiền quán để có được trí tuệ sắc bén. Bởi vì, ai ai cũng có thể đọc hiểu được sự giải thích về Tứ diệu đế… trong sách vở, nhưng điều đó không có nghĩa là đạt được trí tuệ. Đức Phật dạy vì không thấu hiểu Tứ diệu đế và lý nhân duyên nên chúng ta phải trôi lăn trong vòng sanh tử. Hiểu biết ở đây phải là hiểu biết của trí tuệ, nhìn đúng bản chất của sự vật như chúng hiện hữu. Cái nhìn của trí tuệ là cái nhìn của ly tham, không chấp thủ bám víu. Do vậy, trí tuệ mở cửa đi đến tự do, khỏi khổ đau và tiến đến cuộc sống hạnh phúc.

Về phương diện nguồn gốc của khổ đau và hạnh phúc, người có trí tuệ sẽ nhìn mọi sự vật dưới ánh sáng của duyên sinh. Do đó, hạnh phúc và đau khổ trong đời đều nằm trong vòng duyên sanh vô tận. Trên tinh thần này, người có trí sẽ nỗ lực sống tích cực, vì biết rằng cuộc sống của mình hay những hành vi thiện và bất thiện của mình luôn chi phối và ảnh hưởng đến người xung quanh. Do vậy, vị ấy luôn ý thức rằng xây dựng và bảo vệ cuộc sống hạnh phúc cho mình là xây dựng và bảo vệ cuộc sống hạnh phúc cho người khác và ngược lại. Đồng thời, người ấy hướng đến nếp sống vị tha, nhân ái, công bằng, nếp sống không hại mình, hại người, hại cả hai ở đời này và đời sau.

Chính vì thế, trí tuệ là tiêu chí của đời sống đạo đức nhân sinh. Con người có trí tuệ sanh ra trong đời này sẽ mang lại hạnh phúc và lợi ích cho số đông, lợi ích và an vui cho thế giới thần linh và loài người, do người có trí tuệ luôn đặt mình trong con đường chân chính lợi ích .

Trí tuệ là cốt lõi của đạo Phật. Trong các tôn giáo khác, đức tin là tối thượng hay trong Yoga, thiền định là tối quan trọng. Trong đạo Phật, đức tin là bước đầu, thiền định chỉ là phương tiện và cốt tủy của đạo Phật là trí tuệ. Cho nên, mỗi vị tỳ kheo cần phải bồi dưỡng và giữ gìn trí tuệ như là tài sản quý báu nhất của mình, để nuôi dưỡng đời sống phạm hạnh ngày một thăng hoa.

Bảy yếu tố như đã trình bày phần nào nói lên những đóng góp có giá trị làm chuẩn mực cho nếp sống phạm hạnh. Đây là những yếu tố không bị lệ thuộc bởi văn hóa, truyền thống hay xứ sở, quốc gia…, vì nó không phải là những điều luật cứng nhắc hay cơ cấu hành chính của một tổ chức, mà là những pháp hành thiết thực rất diệu dụng, có thể áp dụng một cách linh hoạt cho từng cá nhân. Do vậy, dù ở đâu và thời đại nào, bảy yếu tố trên luôn phù hợp và tuyệt đối cần thiết cho nếp sống Tăng đoàn. Hơn nữa, giáo pháp của Phật đòi hỏi sự nỗ lực cá nhân chứ không phải kinh nghiệm tập thể. Sự hoàn thiện đạo đức của mỗi cá nhân tạo nét đẹp trang nghiêm cho đoàn thể. Do đó, mỗi Tỳ kheo hay Tỳ kheo Ni sống có niềm tin chân chánh, có Tàm, có Quý, có Đa văn, có Tinh tấn, có Chánh niệm và có Trí tuệ thì hội chúng sẽ có nhiều sinh lực. Đó chính là nguồn năng lực vô biên cho sự lớn mạnh của Tăng đoàn. Hay nói cách khác, hòa hợp và thanh tịnh là sức sống mãnh liệt giúp cho tập thể xuất gia – Tăng đoàn Phật giáo vượt qua mọi biến động của thời cuộc, giữ đúng vị trí và vai trò của mình đối với đạo pháp cũng như đối với xã hội.

CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM CỦA TĂNG ĐOÀN

Trái với Bà-la-môn giáo tự giới hạn mình bởi sự phân chia xã hội thành bốn đẳng cấp cứng nhắc, Tăng đoàn Phật giáo ngay từ đầu đã vượt lên trên sự phân biệt đẳng cấp và chủng tộc, do đó có thể phát triển thành một tôn giáo thế giới .

Tăng đoàn Phật giáo mang hai đặc trưng căn bản là hòa hợp và thanh tịnh. Vì vậy, nó có khả năng dung chứa và thuần hóa mọi giai tầng trong xã hội khi gia nhập Tăng đoàn, tuyệt đối không có một sự kỳ thị nào. Sau khi xuất gia, nguồn gốc giai cấp, gia tộc của vị tỷ kheo không còn quan trọng nữa. Quả thực, như các sông lớn Gangà, Yamunà, Aciràvati, Saràbhù và Mahì đều mất danh tánh khi chúng đổ vào biển cả. Cũng vậy, mọi người trong bốn giai cấp đều mất danh tánh trong Tăng đoàn của đức Phật và từ đó về sau được gọi là sa môn Thích tử . [5-III,57] Tỷ kheo là một thành viên của một hội chúng Sa môn không giai cấp.

Trong Tăng đoàn Phật giáo, tất cả bốn giai cấp đều có mặt bởi quan niệm bình đẳng về khả năng tu tập giải thoát khổ đau, cũng như từ bốn ngọn lửa có các loại nhiên liệu củi gỗ khác nhau vẫn bùng lên bốc ngọn lửa giống nhau. [3,635] Đức Phật dạy rằng tất cả mọi người đều phải đọa địa ngục vì ác nghiệp của mình. Cũng vậy, tất cả đều có khả năng phát triển phước nghiệp và từ tâm. [4, số 93]

Tuy nhiên, đức Phật không hề có chủ trương chống lại hệ thống giai cấp của xã hội đương thời. Ngài khéo léo đưa ra cái nhìn như thật đầy trí tuệ về sự cấu thành các giai cấp. Theo Ngài, các giai cấp được hình thành do quy luật tự nhiên về tái sanh và hạnh nghiệp. Giai cấp là một phần kết quả nghiệp quá khứ, mỗi người đều tạo được vị trí xã hội riêng do nghiệp hay hành động của mình:

“Các loài hữu tình vừa là chủ nhân của nghiệp (kamma), vừa là kế thừa nghiệp, nghiệp là thai tạng từ đó họ sinh ra, họ là quyến thuộc của nghiệp, vừa là cư trú trong nghiệp của mình. Nghiệp phân chia các loài hữu tình thành các hạng hạ liệt và ưu thắng”. [4,481]

Đức Phật nói đến nghiệp hay hành động là yếu tố quyết định vận mệnh của con người. Nghiệp quyết định vận mệnh hiện tại của mỗi người nhưng nghiệp cũng làm thay đổi vận mệnh hiện tại của con người và quyết định vận mệnh tương lai của người ấy. Trả lời cho một Bà la môn về nhân phẩm, Đức Phật dạy rằng: “Không phải do sinh trưởng mà một người là cao quý hay hạ tiện, nhưng do hành động người ấy là cao quý hay hạ tiện.” Quan điểm này của Đức Phật cho thấy cái nhìn mới mẻ của ngài về con người và giá trị con người. Do đó ngài cho rằng xóa bỏ sự bất bình đẳng trong xã hội là chuyển hóa cái nhìn cố hữu nơi tâm của con người chứ không phải xóa bỏ hệ thống giai cấp xã hội. Đây là cái nhìn đầy nhân bản và mới mẻ nhất của đức Phật về vấn đề xóa bỏ giai cấp mà sự kiện ngài thu nhận mọi tầng lớp vào Tăng đoàn là một bằng chứng, vì lúc bấy giờ không có tổ chức nào cho phép và chấp nhận tất cả thành viên của mọi đẳng cấp vào trong tổ chức của mình, ngoại trừ Phật giáo.

Quả thật, Tăng đoàn Phật giáo không hề đặt ra bất cứ điều lệ nào về nguồn gốc xã hội đối với những thành viên đã gia nhập nếp sống phạm hạnh. Do vậy, người ta thường cho rằng sự kiện đức Phật mở rộng cánh cửa Tăng đoàn chính là một cuộc cách mạng tư tưởng xã hội có ý nghĩa nhất. Một cuộc cách mạng bắt đầu bằng việc cải thiện con người, mà không phải chú trọng đến việc cải tạo các thể chế xã hội. Điều này cũng có nghĩa là, nếu không có cuộc cách mạng con người thì không có cuộc cách mạng xã hội.

Tăng đoàn Phật giáo vốn dĩ là một tập thể sống hòa hợp, bình đẳng và thanh tịnh để cùng nhau tu tập giải thoát. Trong ý nghĩa này, Tăng đoàn Phật giáo tất nhiên không mang màu sắc kỳ thị giới tính.

Bình đẳng giới tính không phải là chủ đề chỉ được nói đến trong lịch sử cổ đại của con người, mà là một vấn đề muôn thuở của nhân loại. Trong mọi xã hội, việc thảo luận và đấu tranh cho “luật nam nữ bình quyền” vẫn là vấn đề nóng bỏng trên mọi diễn đàn.

Dù rằng, chúng ta không thể xác định phong trào giải phóng phụ nữ và bình đẳng giới tính được hình thành trong khoảng thời gian nào của lịch sử nhân loại, nhưng hầu hết các nguồn sử liệu liên quan đến Ấn Độ đều cho thấy các tôn giáo Ấn Độ chưa hề đề cập sự kiện người nữ xuất gia và tổ chức tu hành xuất thế của phụ nữ, cho đến khi đức Phật Gotama Sakyamuni chấp nhận nữ giới xuất gia và cho phép thành lập Ni đoàn. Từ đó, người ta nói rằng Tăng đoàn Phật giáo là tổ chức đầu tiên đặt nền móng cho tư tưởng bình đẳng giới tính ở Ấn Độ cổ đại, mặc dù vẫn còn một vài bất đồng ý kiến về sự kiện trên.

Thực ra, Đức Phật không hề đấu tranh đòi quyền này, quyền kia cho nữ giới, mà chỉ nhìn nhận nữ giới đúng như vai trò của họ, mở đường cho họ tiến đến cuộc sống hạnh phúc. Bởi vì, sự kỳ thị phái tính hay màu da chủng tộc… chỉ chấm dứt khi nào con người vươn lên bình diện tâm linh, nơi không còn tranh chấp. Chỉ trong địa hạt tâm linh, niềm vui của con người mới không trả giá vì nỗi khổ của người khác. Chỉ trong địa hạt tâm linh, mỗi người mới có thể đạt đến tự do tuyệt đối mà không phương hại đến kẻ khác, và chỉ trong địa hạt tâm linh, tình yêu mới không thể biến thành ganh ghét hận thù. Chỉ có những bậc thầy tâm linh vĩ đại mới không có thành kiến hay sự kỳ thị nào đối với phụ nữ. Đức Phật chính là bậc thầy tâm linh vĩ đại đã mở ra cho nữ giới con đường giải phóng, không những ra khỏi thân phận đen tối bởi sự kỳ thị, mà còn ra khỏi ngục tù bản ngã nhỏ hẹp để vươn tới chân lý giác ngộ. Quan niệm bình đẳng phái tính trong Tăng đoàn Phật giáo luôn được đặt căn bản trên tài và đức. Do đó, nó có ý nghĩa thực thụ, chứ không phải có tính cách quy ước. Theo quan điểm Phật giáo, người nữ phải nỗ lực tu tập, trau giồi những đức tính khả năng của họ để tạo nên sự bình đẳng ấy, chứ không phải ngồi đó kêu gào người khác đem đến cho mình. Đức Phật dạy rằng chỉ có ta làm cho ta thanh cao hay hèn hạ, không ai khác có thể nâng cao hay hạ thấp phẩm giá của ta. Trong vấn đề nhân phẩm cũng vậy, người phụ nữ khi biết đề cao và theo đuổi giá trị tinh thần tâm linh, biết sống vì chân lý, thì họ không có lý do gì để mặc cảm về thân phận của mình, lại càng không có lý do gì để kiêu căng, bởi họ đủ tư cách và khả năng để hoàn thiện chính mình. Và theo Phật giáo, đấy là một địa vị thuận lợi nhất mở ra muôn ngàn khả năng đạt đến giác ngộ Niết-bàn. [22,124-125-146]

Thật vậy, trong Tăng đoàn Phật giáo, vai trò của Tỷ kheo Ni cũng nổi bật như vai trò của các Tỷ kheo. Nếu chúng Tỷ kheo có các đại đệ tử như Sàriputta, Moggalàna…, chúng Tỷ kheo Ni cũng có các đại đệ tử sáng chói như Dhammadinna, Khemà…. Điều này cho thấy, mọi thành viên của Tăng đoàn khi nỗ lực thực hành Giới-Định-Tuệ đều có khả năng chứng đắc Thánh quả như nhau. Mọi người đều có quyền bày tỏ quan điểm của mình trước hội chúng. Chúng ta có thể tìm thấy không khí sinh hoạt đầy ấn tượng của Tăng đoàn ở buổi sơ khai qua Trưởng lão Tăng kệ (Theragàthà) và Trưởng lão Ni kệ (Therigàthà). Sự nhiệt tình tu tập mà đức Phật khơi dậy trong lòng các đệ tử, niềm lạc quan về Tăng già nguyên thủy trên con đường cứu khổ, niềm hân hoan về thực chứng tâm linh và niềm duyệt hỷ về giải thoát – tất cả mọi tâm trạng ấy đều ghi lại một cách sinh động ở đó.

Mặc dù vẫn còn nhiều bất đồng và tranh cãi về vấn đề bình đẳng, lịch sử vẫn ghi nhận rằng sự hình thành Tăng đoàn Phật giáo quả thực đã đem lại một sinh lực mới trong xã hội Ấn Độ trên nhiều phương diện.

Một điều cần lưu ý rằng, trong suốt hành trình độ sinh, đức Phật giáo hóa rất nhiều vị Thánh đệ tử, nhưng ngài không trao cho các vị ấy một quyền uy hay cấp bậc nào. Vì rằng, Ngài đã từ chối thiết lập hệ thống giai cấp có chức quyền trong giáo hội nên ngài đã không giao Tăng đoàn cho bất cứ một vị nào lãnh đạo. Ngài tin rằng không ai có thể làm nơi nương tựa cho người khác, chỉ có pháp và luật làm chỗ nương tựa cho Tăng chúng, mỗi kỳ Bố tát chúng tăng nhóm họp lại và y cứ giới luật Phật chế để biết ai sống đúng pháp hay không mà xử sự và sách tấn lẫn nhau. Tuyệt đối, Tăng chúng không ai có thể đủ uy quyền để quyết định mọi việc và giáo pháp này không dành riêng cho cá nhân nào. Do vậy trong giáo hội, các tỳ kheo và tỳ kheo ni được giao phó những trách nhiệm để mỗi người tự hoàn thành, chứ không phải giao cho họ một quyền lực để quyết định người khác. Điều này nói lên rằng, Tăng già không phải được cai quản bởi phán định của các phần tử trong Tăng mà bởi pháp và luật do Phật chế ra cho tăng noi theo, tỳ kheo không xử sự tỳ kheo, pháp luật xử sự tỳ kheo. [2,108] Sau khi Phật niết bàn, các tỳ kheo nương tựa mình và nương tựa pháp để tu tập, tiếp tục sự nghiệp hoằng dương Chánh pháp .

Nhìn chung, trong 45 năm Tăng già đã được hình thành, lớn mạnh không ngừng và luôn mang một số nét cơ bản:

Tăng đoàn là một đoàn thể sống đời sống không gia đình, do đức Phật sáng lập gồm đủ mọi giai tầng trong xã hội sống bình đẳng thanh tịnh trong giáo pháp của ngài. Nếp sống Giới-Định-Tuệ của từng thành viên đã giúp tập thể Tăng đoàn vững mạnh. Tăng đoàn có tổ chức, giới luật chặt chẽ dựa trên tinh thần tự giác, thanh tịnh, hòa hợp. Ngoài nỗ lực tự thân để giải thoát, Tăng đoàn luôn liên hệ chặt chẽ với xã hội để truyền bá Chánh pháp thông qua đoàn thể cư sĩ. (Đoàn thể cư sĩ tại gia là cầu nối để Tăng già nói lên tiếng nói của Phật giáo. Phật giáo sẽ vững mạnh hơn khi đội ngũ cư sĩ sống đúng Chánh pháp ). Cuối cùng, Tăng đoàn mang trọn vẹn ý nghĩa của ngôi Tam Bảo.

Tất cả những đặc điểm trên đã, đang và sẽ hiện hữu mãi ở Tăng đoàn Phật giáo là nhờ tinh thần hòa hợp và thanh tịnh. Ngoài ra, những yếu tố hoàn thiện con người – bảy yếu tố như đã trình bày ở trước đóng vai trò hết sức quan trọng, quyết định đến sự hưng suy của Tăng đoàn. Bởi lẽ, con người tự thân chưa được hoàn thiện thì tinh thần thanh tịnh và hòa hợp không được nuôi dưỡng. Mỗi người là một thành viên của cộng đồng, sự an lạc hay đau khổ của chúng ta có sự liên quan ảnh hưởng đến người khác. Cho nên để xây dựng một hội chúng hưng thịnh, trước tiên, mỗi người phải soi rọi lại chính mình, tự hoàn thiện mình theo tinh thần Giới – Định – Tuệ để loại trừ dần các vọng tưởng, tham muốn, hiềm thù… làm khổ đau chia rẽ giữa mình và người. Xây dựng sửa đổi tự thân của mỗi người là yếu tố quan trọng trong các yếu tố để xây dựng một tập thể tốt đẹp. Nếu trong một hội chúng, chư Tỳ kheo và Tỳ kheo Ni khi ngồi lại với nhau mà không thể hiện tinh thần hòa hợp và thanh tịnh thì mỗi thành viên trong đó đều xét lại chính mình xem đã sống đúng theo bảy pháp mà đức Phật đã dạy hay chưa. Hơn bao giờ hết, những vị đệ tử xuất gia – người có nhiệm vụ duy trì Chánh pháp cần phải tỏ rõ tinh thần đoàn kết hòa hợp như nước với sữa, loại bỏ những tư kiến, thiên kiến, ngã chấp… cùng nhau tu tập xây dựng một hội chúng xuất gia vững mạnh .

KẾT LUẬN

Tăng già trong ý nghĩa đầy đủ của ngôi Tam Bảo như một cây cổ thụ thân to, tàng rộng dù đã bao lần thay lá đổi cành vẫn sum xuê tươi tốt. Đó chính là nhờ nhựa sống mãnh liệt –Thanh tịnh và hòa hợp giúp cây tiếp tục tồn tại bằng cách truyền dẫn các dưỡng tố khắp thân cây. Nhựa sống ấy lại được nuôi dưỡng từ phẩm hạnh của những thành viên trong Tăng đoàn.

Lịch sử vốn vô tư khách quan, không để cho ai ở ngoài dòng chảy của nó. Thế nhưng, những gì không còn phù hợp với giá trị đạo đức và không đem lại hạnh phúc cho con người thì sẽ bị lịch sử bỏ lại bên lề. Về mặt này, Tăng đoàn Phật giáo hơn hai mươi lăm thế kỷ nay luôn xuôi dòng cùng lịch sử, là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho muôn triệu người phương Đông rồi dần đến phương Tây. Bởi lẽ dù trải qua bao thăng trầm của thời cuộc, Tăng đoàn Phật giáo vẫn giữ đúng vai trò của mình: Thực hành giữ gìn Chánh pháp và phổ biến Chánh pháp đến cuộc đời, nhằm giúp mọi người thông hiểu Phật pháp và sống theo Chánh pháp để hướng đến cuộc sống hạnh phúc an ổn. Do vậy, công cuộc dấn thân vào đời để truyền bá Chánh pháp là nhiệm vụ trọng yếu của Tăng già. Thế nhưng song song với việc dấn thân hoạt động đó, mỗi người phải tự hoàn thiện mình, phải có sự thâm hậu của nội lực. Chính yếu tố thứ hai này làm nền tảng, cơ sở cho sự dấn thân, và là mạng mạch, là sự sống còn của Phật pháp, như đức Phật đã từng dạy: “Nếu các Tỳ kheo lo kiềm hãm tâm để tu hành thì cõi thế gian này quả vị A La Hán không bao giờ mất hẳn” . [10,198] Nói cách khác, Chánh pháp có tồn tại hay không còn tùy thuộc vào sự tu hành của đệ tử Phật. Cho dù cách xa Phật hàng ngàn năm, các Tỳ kheo vẫn chuyên tâm tu hành đạt quả vị vô thượng thì Chánh pháp vẫn hiện hữu ở đời .

Ngoài ra, chúng ta cần lưu ý rằng, Tăng đoàn Phật giáo cũng chỉ là một xã hội thu nhỏ của xã hội mà nó đang là thành viên, cho nên tổ chức xã hội thu nhỏ này phải hoạt động nhịp nhàng với tầng số hoạt động của xã hội hiện hành, nếu làm ngược lại chỉ đem đến bất ổn, có khi nguy hại đến đoàn thể và bản thân mình. Đức Phật không cần chống lại các trào lưu đương thời, Ngài có con đường riêng, “Tùy duyên bất biến”, nhờ đó mà giáo pháp của Ngài được tồn tại và phát triển.

Trong lịch sử, nhân loại đã thực hiện nhiều cuộc cách mạng, cải cách trên nhiều lĩnh vực nhằm ổn định cuộc sống cho con người và thiết lập hòa bình thế giới. Những sóng triều cách mạng ấy hầu hết đều hướng ra bên ngoài, tất cả đều thiên trọng về cải tiến đời sống vật chất và “tri thức vật chất”. Điều đó càng làm cho dục vọng thêm lớn, sân hận thêm nhiều – nguồn gốc khổ đau. Họ chưa quan tâm nhiều đến cuộc cách mạng chân chính có thể thay đổi được thực trạng của cuộc sống. Đó là cuộc cách mạng hướng vào bên trong – cuộc cách mạng tâm linh, cách mạng với chính mình .

Hơn bao giờ hết, lời dạy của đức Phật có giá trị biết bao trong vấn đề cải cách này – cải cách và hoàn thiện con người năm uẩn còn nhiều tham lam, sân hận và hiềm thù... thì mọi việc sẽ đi dần vào ổn định. Thế cho nên, xã hội công nghệ dù có phát triển đến đâu chăng nữa, thì những điều căn bản cho nếp sống phạm hạnh của Tăng đoàn vẫn thế, vẫn diệu dụng và mang tính thích thời. Thiết nghĩ, chúng ta không cần ưu tư quá nhiều về việc cải cách hay đưa ra những phương pháp mới lạ để xây dựng một tập thể phạm hạnh phù hợp với xã hội đương đại, mà hãy cùng nhau trở về suối nguồn uyên nguyên của Diệu pháp để thực hành và thể nghiệm đời sống tâm linh một cách thiết thực nhất.

Nếp sống phạm hạnh của Tăng đoàn Phật giáo luôn tỏa sáng rực rỡ suốt hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, giờ đây vẫn chưa phải muộn màng để chúng ta thực hiện nếp sống ấy hầu xây dựng một tập thể xuất gia vững mạnh: Vị tỳ kheo sống có Tín tâm, có Tàm, có Quý, Đa văn, Tinh tấn, Chánh niệm và Trí tuệ thì hội chúng có nhiều sinh lực – Chánh pháp được duy trì . Hơn nữa, theo tinh thần duyên khởi của đạo Phật, con người cá nhân và xã hội là một khối nhất thể. Do đó, con người cá nhân được hoàn thiện thì xã hội sẽ được cải thiện một cách tự nhiên. Đây là sự đóng góp tích cực nhất của Tăng đoàn Phật giáo đối với xã hội .

Thích Nữ Liên Hoa

Nguồn: http://thuvienhoasen.org/a13341/bay-yeu-to-khien-tang-doan-hung-thinh

THƯ MỤC THAM KHẢO

[1]. Thích Minh Châu, Trường Bộ kinh tập I, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam (VNCPHVN) –1991 .

[2]. Thích Minh Châu, Trung Bộ kinh tập I, VNCPHVN –1992.

[3]. Thích Minh Châu, Trung Bộ kinh tập II, VNCPHVN –2000.

[4]. Thích Minh Châu, Trung Bộ kinh tập III, VNCPHVN –2001.

[5]. Thích Minh Châu, Tăng Chi Bộ kinh tập I,II,III, VNCPHVN – 1988.

[6]. Thích Minh Châu, Tăng Chi Bộ kinh tập III, VNCPHVN –1996.

[7]. Thích Minh Châu, Tương Ưng Bộ kinh tập I, VNCPHVN –1996.

[8]. Thích Minh Châu, Tương Ưng Bộ kinh tập II, VNCPHVN – 1991.

[9]. Thích Minh Châu, Tương Ưng Bộ kinh tập V, VNCPHVN – 1996.

[10]. Thích Minh Châu, Trường A Hàm tập I, VNCPHVN – 1991.

[11]. Thích Minh Châu, Trung A Hàm tập I, VNCPHVN –1992.

[12]. Thích Minh Châu, Chánh pháp và Hạnh phúc, VNCPHVN –1990.

[13]. Thích Minh Châu, Thắng Pháp Tập Yếu luận tập I, Ban Tu thư Viện Đại học Vạn Hạnh –1996.

[14]. Thích Minh Châu, Kinh Pháp Cú, Thiền Viện Vạn Hạnh –1996.

[15]. Võ Đình Cường, Ánh Đạo Vàng, Minh Đức XB và ấn hành 1962.

[16]. Thích Giác Dũng, Phật Việt Nam Dân Tộc Việt Nam, NXB Tôn giáo –2003.

[17]. Lê Hoàng Thanh Dân, Các vấn đề giáo dục, NXB Trẻ 1970.

[18]. Nguyễn Phương Đông dg, Phật giáo một ngàn năm đầu, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội – 1996 .

[19]. Thích Nữ Trí Hải, Trung Bộ kinh (tóm tắt và chú giải) trọn bộ, NXB Tôn giáo –2002.

[20]. Thích Nữ Trí Hải, Tứ Phần Luật TKN giới bản lượt giải tập I, THPGTPHCM –1995.

[21]. Thích Nữ Trí Hải dg, Thanh Tịnh Đạo luận tập I, II, NXB Tôn giáo 2001.

[22]. Thích Nữ Trí Hải, Từ nguồn Diệu Pháp, NXB Tôn giáo 2004.

[23]. Thích Nữ Trí Hải, Nguồn Mạch Tâm Linh, NXB Tôn giáo 2003.

[24]. Phạm Kim Khánh dg, Đức Phật và Phật Pháp, NXB TP. HCM 1998.

[25]. Trần Phương Lan dg, Đức Phật lịch sử, VNCPHVN –1997.

[26]. Lục Thạch dg, Tam bảo những phẩm tinh của Phật Pháp Tăng.

[27]. Thích Chơn Thiện, Tăng già thời đức Phật, VNCPHVN –1991.

[28]. Thích Chơn Thiện, Phật học khái luận, NXB TP. HCM –1999.

[29]. Thích Chơn Thiện, Những hạt sương, NXB Tôn giáo –2000.

[30]. Thích Chơn Thiện, Tìm vào thực tại, VNCPHVN –1997.

[31]. Thích Minh Thông, Theo dấu chân xưa, NXB Tôn giáo –2003.

[32]. Thích Viên Trí, Đại cương sử Phật giáo Ấn Độ, giáo trình giảng dạy HVPGVN tại TP. HCM khóa V –2001.

Mạng Y Tế
Nguồn: Phật giáo (https://phatgiao.org.vn/bay-yeu-to-khien-tang-doan-hung-thinh-d15792.html)
Từ khóa: hưng thịnh

Chủ đề liên quan:

hưng thịnh yếu tố

Tin cùng nội dung

Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY