Bệnh quai bị (còn được gọi là bệnh viêm tuyến mang tai dịch tễ hay viêm tuyến mang tai do virut quai bị) là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, lây trực tiếp bằng đường hô hấp, hay gây thành dịch trong trẻ em, thanh thiếu niên do virut quai bị gây nên. Biểu hiện lâm sàng phổ biến nhất là viêm tuyến nước bọt mang tai không hoá mủ. Các tuyến nước bọt khác, tinh hoàn, tuỵ và hệ thần kinh trung ương cũng có thể bị tổn thương.
Từ thời Hypocrates người ta đã biết về bệnh quai bị và đường lây. Năm 1700 Haminton miêu tả về trường hợp viêm tinh hoàn do quai bị. Năm 1934 Johnson và Goodpasture đã tìm thấy vi rut quai bị trong tuyến nước bọt bệnh nhân quai bị. Năm 1950 Ender và cộng sự chế thành công vac xin ch*t. Năm 1966 Buynak và Halleman đã chế thành công vac xin sống giảm độc lực.
Là virut nhóm ARN thuộc họ Paramyxovirut. Có hướng tính gây bệnhvới các tuyến (ngoại tiết) và thần kinh. Sức đề kháng kém, bị bất hoạt nhanh khi ra ánh nắng và trong điều kiện khô nóng. Tổn tại lâu ở nhiệt độ thấp
Bệnh gặp khắp nơi trên thế giới và có thể xảy ra quanh năm nhưng thường thành dịch vào mùa Đông - Xuân.
Cảm thụ: Tất cả những người chưa mắc quai bị thường ở tuổi thanh thiếu niên. Trẻ dưới 2 tuổi và người già rất hiếm bị bệnh.
Miễn dịch: Sau khi mắc bệnh có miễn dịch vững bền tồn tại rất nhiều năm. Có tái phát, nhưng rất hiếm. Miễn dịch mẹ tryền cho con tồn tại khoảng 1 năm.
Từ niêm mạc miệng, mũi, họng, kết mạc, vi rút đột nhập vào máu gây nhiễm vi rút huyết và gây nên các triệu chứng nhiễm trùng nhiễm độc ở thời kỳ đầu. Sau đó từ máu vi rút đột nhập vào các tuyến nước bọt (hay gặp nhất là tuyến mang tai), tuyến Sinh d*c, tuỵ, thần kinh v.v... và phát triển, gây nên các triệu chứng viêm cục bộ ở các cơ quan này. Sau đó vi rút được đào thải qua nước bọt. Đôi khi có thể từ tuyến nước bọt đột nhập vào máu gây tổn thương ở tuyến khác.
Tinh hoàn: Thương tổn cả mô kẽ và biểu mô tuyến dẫn đến hoại tử các tế bào biểu mô. Sau đó các tuyến bị teo lại và tắc. Nếu bị tổn thương nặng có thể gây thiểu năng Sinh d*c, không có tinh trùng.
Sau sốt 24-28 giờ xuất hiện viêm tuyến mang tai. Lúc đầu sưng một bên, sau 1-2 ngày sưng tiếp bên kia (thường sưng cả hai bên, ít gặp sưng chỉ 1 bên). Hai bên sưng thường không đối xứng (bên sưng to, bên sưng nhỏ), tuyến mang tai sưng to đôi khi làm mất rãnh trước và sau tai, có khi biến dạng mặt, mặt phình ra, cổ bạnh, cằm xệ.
Viêm đỏ lỗ ống Stenon (dấu hiệu Mourson). Khi tuyến mang tai sưng không rõ ràng hoặc lúc mới khởi bệnh cần tìm 3 điểm đau của Rillet và Barthez đó là: điểm khớp thái dương - hàm, điểm mỏm xương chũm, điểm sau góc xương hàm dưới.
Xét nghiệm máu: Bạch cầu giảm, bạch cầu đa nhân trung tính giảm, lympho tăng tương đối, Amylaza máu và nước tiểu đều tăng.
Bệnh tự khỏi trong vòng 10 ngày. Thường hết sốt sau 3-4 ngày, tuyến hết sưng trong vòng 8-10 ngày, hạch sưng kéo dài hơn tuyến một chút. Tuyến nước bọt không bao giờ hoá mủ (trừ khi bội nhiễm vi khuẩn) và cũng không bao giờ bị teo.
Tỷ lệ mắc tuỳ vụ dịch, tuỳ theo tác giả (từ 10% - 30% số mắc bệnh quai bị), nhưng là nơi khu trú hay gặp đứng thứ hai sau viêm tuyến nước bọt mang tai.
Thường xuất hiện sau viêm tuyến nước bọt và khi các triệu chứng viêm tuyến nước bọt đã dịu đi. Thường vào ngày thứ 5 đến thứ 10 của bệnh thấy sốt xuất hiện trở lại hoặc sốt tăng lên. Có thể buồn nôn, nôn. Tinh hoàn đau, nhất là khi đi lại và to gấp 2-3 lần bình thường, sờ thấy chắc, da bìu có thể nề, căng đỏ. Trong những trường hợp nặng có thể kèm thêm viêm thừng tinh, viêm mào tinh hoàn và tràn dịch màng tinh hoàn.
Tiến triển: Thường hết sốt sau 3-5 ngày. Tinh hoàn giảm sưng từ từ, có thể 3-4 tuần sau tinh hoàn mới hết sưng đau (với thể nặng) và không bao giờ có mủ.
Tinh hoàn có bị teo hay không phải đợi khoảng hai tháng sau mới biết chắc (tỷ lệ teo tinh hoàn khoảng 5/1000). Chứng vô tinh trùng rất hiếm. Chức năng nội tiết thường không bị ảnh hưởng. Theo kinh điển nếu teo tinh hoàn có thể gây các tình trạng như: Không có tinh trùng, vô sinh, chậm lớn, mất nam tính và liệt dương. Ngày nay qua theo dõi nhiều năm, đa số các tác giả thấy rằng:
Khi bị teo cả 2 bên hoặc ở người chỉ có 1 tinh hoàn thì tỷ lệ bị ảnh hưởng hoạt động Sinh d*c và vô sinh cũng thấp.
Viêm màng não do virut quai bị: Gặp khoảng 16% các trường hợp quai bị. Thường xuất hiện sau khi viêm tuyến nước bọt vài ngày (đôi khi xuất hiện trước).
Viêm não: Có thể xảy ra cùng hoặc sau viêm tuyến mang tai 2-3 tuần. Đôi khi đơn độc. Thường kèm viêm màng não.Có tiên lượng tốt hơn viêm não do vi rút Nhật bản. Hãn hữu có Tu vong.
Có viêm tuyến mang tai cấp không có xu hướng hoá mủ, thường bị hai bên, xuất hiện không cùng một lúc.
Huyết thanh chẩn đoán: Làm phản ứng kết hợp bổ thể hoặc phản ứng ức chế ngưng kết hồng cầu, phản ứng ELISA có độ nhậy cao nay được sử dụng rộng rãi.
Do vi khuẩn thương hàn, tụ cầu, liên cầu... Viêm tuyến mang tai một bên có sưng, nóng, đỏ, đau rõ. Có xu hướng hoá mủ nên ấn lõm. Vuốt dọc ống Stenon có mủ chảy ra. Bạch cầu tăng cao, bạch cầu đa nhân trung tính tăng cao.
Do viêm nhiễm ở khu vực xung quanh (răng, hàm, họng, hầu, hạch bạch nhân): Hạch có ranh giới rõ, di động, đau. Bạch cầu ở máu ngoại vi tăng cao, bạch cầu đa nhân trung tính tăng cao. Có ổ viêm ở khu vực lân cận.
Hạ sốt nếu sốt quá cao, giảm đau (Paracetamol), An thần nhẹ (seduxen,rotunda), dùng các vitaminB,C uống nước chanh, cam, ăn lỏng.
Nằm nghỉ tại giường, hạn chế đi lại, trong thời gian còn sốt, còn sưng tuyến (thường là 7-8 ngày đầu). Cách ly tối thiểu 10 ngày.
Giảm đau: Chườm đá, uống paracetamol 0,5´1 viên/lần, uống 2 đến3 lần /ngày (uống lúc no, cách 6 giờ uống 1 lần) dùng 3-4 ngày.
Nếu đau tinh hoàn nặng dùng paracetamol không đỡ có thể dùng thêm codein với liều 30 mg-60mg/ngày cho người lớn (chỉ dùng 2-3 ngày) hoặc efferalgan-codein 1viên/lần x 2-3 lần/ngày
Sau khi tinh hoàn đỡ sưng đau có thể dùng vitamin E 400mg 1 viên/ngày từ 1-2 tháng để tăng sinh tinh trùng.
Phụ nữ có thai bị bệnh nếu có điều kiện tiêm Globulin miễn dịch đặc hiệu, liều 0,3 mg/kg, dùng 1 liều tiêm bắp duy nhất.
Liều 0,5 ml/tiêm dưới da một lần duy nhất phòng bệnh cho thanh, thiếu niên nhi đồng chưa có miễn dịch (đặc biệt cho người chỉ có một tinh hoàn, nghe kém). Vacxin cho miễn dịch tốt, không có tai biến. Bảo vệ được 3 năm đến 5 năm.
Nguồn: Internet.Chủ đề liên quan:
bài giảng bệnh quai bị parotitis epidemica bệnh quai bị biểu hiện dấu hiệu điều trị quai bị